Nhiều chuyên gia nêu bằng chứng Trường Sa, Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc

Chiều 19-11, Hội thảo Khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 13 với chủ đề Nhìn lại quá khứ vì một tương lai tươi sáng hơn do Học viện Ngoại giao (DAV) tổ chức đã bế mạc tại Hà Nội.

Năm nay, lần đầu tiên hội thảo thường niên về Biển Đông tổ chức các phiên bình luận theo dòng sự kiện.

Tại hội thảo, các chuyên gia nhận định trong bối cảnh quan hệ quốc tế có những bất ổn khó lường do hậu quả của đại dịch và cạnh tranh nước lớn, tình hình tại Biển Đông và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, với sự gia tăng của hành vi đơn phương trên biển.

Cùng với đó là xu hướng quân sự hoá, sử dụng các lực lượng bán quân sự, xu hướng tập hợp lực lượng trong khu vực (QUAD, AUKUS) và sự chuyển hướng chiến lược của các nước và tổ chức quốc tế về khu vưc Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương...

Hội thảo có sự tham gia đông đảo của hơn 60 diễn giả là các chuyên gia uy tín từ 30 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ảnh: BNG

Các học giả tham dự hội thảo đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng trật tự trên Biển Đông dựa trên luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật biển Liên Hợp Quốc 1982.

Nhiều học giả khẳng định vai trò của Phán quyết của Toà Trọng tài với Vụ kiện Biển Đông năm 2016, qua nhờ đó giúp thu hẹp về mặt pháp lý tranh chấp tại Biển Đông, làm rõ cơ sở pháp lý đối với một số vấn đề tại Biển Đông. Chẳng hạn như hoạt động dầu khí, xác định đường cơ sở đối với thực thể trên biển Biển Đông và việc đảm bảo an toàn, an ninh hàng hải tại khu vực.

Học giả Trung Quốc nhận định rằng UNCLOS chưa đầy đủ và còn nhiều điều khoản mập mờ, cần có thêm những dàn xếp khu vực để giải quyết các vấn đề cụ thể tại Biển Đông. Tuy nhiên, không đồng tình, nhiều học giả ở các quốc gia khác cho rằng cuộc tranh luận công hàm giữa các quốc gia về Biển Đông cho thấy đa số các nước ủng hộ việc sử dụng UNCLOS là cơ sở pháp lý toàn diện và duy nhất để xác định các yêu sách biển và thực thi quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc gia.

Từ góc độ lịch sử, các chuyên gia Trung Quốc, Anh, Pháp và Việt Nam đã có buổi thảo luận thẳng thắn và thực chất về các sự kiện và bằng chứng lịch sử liên quan đến tranh chấp Biển Đông, cũng như ý nghĩa của các dữ kiện lịch sử này với chủ quyền đối với Trường Sa và Hoàng Sa.

Một số dữ kiện lịch sử mới được công bố qua quá trình nghiên cứu tài liệu lưu trữ cho thấy cho tới năm 1899, triều đình phong kiến Trung Quốc vẫn khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc phạm vi quản lý của nước này.

Hội thảo được tổ chức theo hình thức kết hợp trực tiếp và trực tuyến. Ảnh: BNG

Ghi chép có giá trị chứng minh rất cao của thiền sư nổi tiếng Trung Quốc Xu Shillun cũng khẳng định Trường Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý của triều Nguyễn Việt Nam.

Đặc biệt, năm 2021 là tròn 70 năm ký kết Hiệp ước Hoà bình San Francisco năm 1951, các học giả đã chia sẻ những nghiên cứu khẳng định Hiệp ước không làm thay đổi hay tác động tiêu cực đến chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa.

Phát biểu bế mạc Hội thảo, TS. Phạm Lan Dung đánh giá cao sự tham gia tích cực và nhiệt tình của các đại biểu trực tuyến và trực tiếp.

Các ý kiến trao đổi thẳng thắn, khoa học, có tính chất xây dựng và các đề xuất kiến nghị thu nhận tại diễn đàn học thuật sẽ góp phần vào việc nâng cao nhận thức, từ đó góp phần vào việc duy trì hợp tác và hòa bình tại Biển Đông, trong bối cảnh thế giới đang trải qua khó khăn của đại dịch và mỗi chúng ta đang đều phải thích ứng với trạng thái bình thường mới.

 

Lo ngại đứt gãy chuỗi cung ứng trên biển

Đánh giá về tác động của đại dịch COVID-19 đối với vận tải hàng hải nói chung và vận tải hàng hải qua Biển Đông nói riêng, các học giả nhấn mạnh đến nhiều yếu tố gây ra đứt gãy chuỗi cung ứng chi phí tăng cao, thiếu hụt lao động và các quy định về nhập cảnh, dịch tễ.

Trong thời gian tới, chuỗi cung ứng ở khu vực và trên thế giới vẫn có nguy cơ tắc nghẽn nghiêm trọng và tình trạng này có thể kéo dài đến năm 2023. Nguyên nhân là do diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, căng thẳng gia tăng tại eo biển Đài Loan và Biển Đông, giá dầu tăng cao cũng như cơ sở hạ tầng và logistic giữa các quốc gia còn yếu và thiếu đồng bộ.

Các đại biểu cũng thảo luận về những giải pháp để đảm bảo khả năng phục hồi tuyến đường biển trong thời gian tới như tăng độ phủ vaccine, thay đổi chính sách đối phó với đại dịch, thống nhất các quy định phòng chống dịch giữa các tổ chức quốc tế, giữa các quốc gia.

Ngoài ra những giải pháp khác như đơn giản hoá thủ tục; đẩy mạnh chuyển đổi số; tăng cường đối thoại chiến lược giữa các nước để giảm căng thẳng; đảm bảo an toàn, an ninh hàng hải và sự thông suốt trên biển... cũng được các đại biểu quan tâm và thảo luận.

Trong Hội thảo, các đại biểu cũng chia sẻ tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường biển. Theo đó, nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường biển có thể được xem là ưu tiên cấp bách, chìa khoá giải quyết các vấn đề chung ở Biển Đông, như đối phó thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và nhu cầu bảo vệ đa dạng sinh học biển.

Hợp tác nghiên cứu khoa học biển còn đối mặt với những hạn chế từ rào cản tiếp cận thông tin dữ liệu, nhiều nước lạm dung khoa học vì mục tiêu chính trị... Do đó, các chuyên gia nhấn mạnh tới tính chất khách quan, công khai của khoa học, đề xuất trong tương lai các quốc gia có thể cởi mở hơn trong chia sẻ dữ liệu, tăng cường các nỗ lực tập thể, xây dựng các khuôn khổ khu vực phù hợp để hướng tới việc đảm bảo một đại dương  trong lành và bền vững.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm