Từ năm 2014 đến năm 2017, ông có thỏa thuận bán thức ăn chăn nuôi cho vợ chồng ông N. theo hình thức là đến khi heo xuất chuồng đợt nào thì vợ chồng ông N. sẽ thanh toán tiền đợt đó cho ông. Sau mỗi lần xuất chuồng, vợ chồng ông N. đều có thanh toán tiền cho ông nhưng đều thiếu lại một ít. Sau nhiều lần như vậy, đến ngày 13-6-2017, hai bên đối chiếu công nợ thì vợ chồng ông N. còn thiếu ông M. hơn 734 triệu đồng.
Sau đó, ông M. tiếp tục bán thức ăn cho vợ chồng ông N. thêm 50 triệu đồng nữa, tổng cộng vợ chồng ông N. thiếu ông hơn 785 triệu đồng. Do vợ chồng ông N. không chịu thanh toán số nợ trên nên ông M. khởi kiện yêu cầu TAND huyện Mỏ Cày Nam giải quyết.
Trong quá trình chờ tòa giải quyết, vợ chồng ông N. có thanh toán cho ông M. hơn 50 triệu đồng. Do đó, ông M. yêu cầu vợ chồng ông N. phải trả cho ông hơn 734 triệu đồng.
Trình bày tại tòa, vợ chồng ông N. thừa nhận còn thiếu ông M. số tiền trên và chấp nhận trả cho ông M. Tuy nhiên, vợ chồng ông phản tố yêu cầu ông M. phải bồi thường thiệt hại số tiền 144 triệu đồng với lý do là ông M. tự động ngưng cung cấp thức ăn dẫn đến đàn heo của vợ chồng ông bị chậm lớn, phải kéo dài thời gian chăn nuôi.
Tại phiên xử sơ thẩm của TAND huyện Mỏ Cày Nam, vợ chồng ông N. rút một phần yêu cầu phản tố, chỉ yêu cầu ông M. bồi thường 103 triệu đồng.
Theo TAND huyện Mỏ Cày Nam, bị đơn đồng ý trả số nợ thức ăn chăn nuôi 734 triệu đồng mà nguyên đơn yêu cầu nên việc buộc bị đơn trả số tiền này cho nguyên đơn là phù hợp.
Về yêu cầu phản tố của bị đơn, bị đơn không đưa ra được tài liệu, chứng cứ nào chứng minh việc nguyên đơn ngưng cung cấp thức ăn dẫn đến đàn heo của vợ chồng bị đơn bị chậm lớn từ lúc nào, kéo dài thời gian trong bao lâu so với lúc bình thường... Còn nguyên đơn thì không thừa nhận, cũng không đồng ý bồi thường.
Ngoài ra, trong lần hòa giải ngày 17-10-2017, các bên thống nhất thỏa thuận, hòa giải thành. Sau đó, bị đơn mới đưa ra yêu cầu phản tố. Theo khoản 3 Điều 200 BLTTDS thì thời điểm phản tố của bị đơn phải có trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Trong khi đó, bị đơn yêu cầu phản tố và nộp tạm ứng án phí là sau khi hòa giải. Từ đó, tòa kết luận yêu cầu phản tố của bị đơn là không có cơ sở để chấp nhận.