DIỄN ĐÀN “THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - GỠ VƯỚNG CHO KINH TẾ XANH”:

Từ rác thải thành năng lượng tái tạo, năng lượng xanh

(PLO)- Việc nghiên cứu, xây dựng chính sách và chiến lược về năng lượng tái tạo không chỉ giúp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu mà còn thúc đẩy xu hướng phát triển kinh tế xanh.

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

Chiều ngày 6-12, tại TP.HCM, Báo Pháp Luật TP.HCM tổ chức diễn đàn "TP.HCM - Gỡ vướng cho kinh tế xanh" với sự tham gia của lãnh đạo, bộ, ban, ngành, lãnh đạo TP.HCM, chuyên gia đại diện ngân hàng cùng hàng trăm doanh nghiệp.

Mở đầu phiên 1 với chủ đề "Thách thức và giải pháp cho ngành sản xuất, năng lượng tái tạo và quản lý rác thải đô thị, công nghiệp" là ba tham luận đến từ cơ quan quản lý và chuyên gia.

Phiên thảo luận bàn tròn thách thức và giải pháp cho ngành sản xuất năng lượng tái tạo tại diễn đàn kinh tế xanh
Phiên thảo luận bàn tròn thách thức và giải pháp cho ngành sản xuất năng lượng tái tạo. Ảnh:HOÀNG GIANG

Nhiều thách thức cho nguồn năng lượng xanh

Mở đầu phiên 1 với bài tham luận đến từ ông Tống Viết Thành, Phó trưởng Phòng Quản lý Chất thải rắn, Sở TN&MT TP.HCM với chủ đề “Thực trạng việc quản lý và xử lý rác thải đô thị và công nghiệp thành năng lượng xanh; Những khó khăn hiện nay, giải pháp tháo gỡ và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định liên quan”.

Ông Tống Viết Thành chia sẻ rác thải sinh hoạt trên địa bàn TP phát sinh trung bình vào khoảng 13.000 tấn/ngày. Khối lượng rác sau phân loại, tái chế và đưa về các nhà máy xử lý trung bình phát sinh khoảng 10.000 tấn/ngày.

Từ rác thải thành năng lượng tái tạo, năng lượng xanh
Ông Tống Viết Thành, Phó trưởng Phòng Quản lý Chất thải rắn, Sở TN&MT TP.HCM. Ảnh: NHƯ NGỌC

Thành phần rác sinh hoạt chủ yếu là thành phần hữu cơ (khoảng 50- 60%), nhiệt trị thấp. Thành phần có khả năng tái chế tại khu vực tiếp nhận của các nhà máy xử lý nhựa, giấy, cao su… chiếm tỉ lệ thấp (khoảng 27%). Hiện tại, TP.HCM có hai công nghệ xử lý chính là chôn lấp (69%) và tái chế, Compost (21%).

Hiện TP.HCM định hướng có ba quy hoạch, cụ thể là đồ án điều chỉnh quy hoạch chung TP.HCM đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2060 (do Sở Quy hoạch - Kiến trúc chủ trì thực hiện); Quy hoạch TP.HCM thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (do Sở KHĐT chủ trì thực hiện) và đồ án quy hoạch xử lý chất thải rắn TP.HCM đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050.

Tiếp đến, ông Lương Thanh Hải, Chuyên gia Phát triển dự án Công ty Skye Renewables Việt Nam với bài tham luận "Những khó khăn vướng mắc và đề xuất giải pháp tháo gỡ liên quan đến việc tái chế các sản phẩm theo các quy định trong Luật Bảo vệ Môi trường 2020 và Nghị định số 08/2022 của Chính phủ".

Ông Lương Thanh Hải, Chuyên gia Phát triển dự án Công ty Skye Renewables Việt Nam. ẢNH: NHƯ NGỌC

Ông Lương Thanh Hải, Chuyên gia Phát triển dự án Công ty Skye Renewables Việt Nam. ẢNH: NHƯ NGỌC

Với bài tham luận này, ông Hải đã đưa ra những hạn chế trong ngành năng lượng mặt trời (NLMT) tại Việt Nam. Theo ông Hải, dù tiềm năng lớn về bức xạ tương đối cao và nhu cầu lớn do giá điện tăng mạnh liên tục trong những năm qua, các dự án NLMT tại Việt Nam vẫn luôn gặp nhiều khó khăn và rào cản từ nhiều phía.

Thứ nhất là rào cản về pháp lý, hiện tại cơ chế mua điện NLMT áp mái dư lên lưới được khuyến khích nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể. Về lâu dài, các nhà đầu tư NLMT, doanh nghiệp tư nhân vẫn đang mong chờ thực hiện cơ chế mua bán điện trực tiếp DPPA.

Bên cạnh đó là những hạn chế đối với doanh nghiệp, cụ thể NLMT áp mái chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ điện. Cùng đó, lợi ích từ NLMT đối với doanh nghiệp không đồng đều, phụ thuộc vào cá nhân từng doanh nghiệp. Hợp đồng NLMT áp mái có thời gian lâu dài, với nhiều yêu cầu, cam kết của doanh nghiệp với nhà đầu tư.

kinh-te-xanh.jpg
Đại biểu lắng nghe các tham luận tại tọa đàm.

Thứ ba phải kể đến là khó khăn của nhà đầu tư NLMT. Đơn cử như thị trường đầu tư NLMT áp mái tại Việt Nam rất cạnh tranh. Các vấn đề pháp lý, thủ tục, giấy phép phát triển dự án cũng khá phức tạp, chưa đồng nhất. Kết quả thực tế trái ngược với mô phỏng tài chính, kỹ thuật.

Đặt vấn đề về năng lượng xanh, PGS-TS Nguyễn Thị Hồng Nguyệt, Trưởng Khoa Kinh tế, Trường ĐH Tài nguyên và Môi trường TP.HCM cũng có tham luận về chủ đề "Những khó khăn và thách thức khi chuyển đổi từ năng lượng truyền thống sang năng lượng tái tạo và đề xuất các chính sách để khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào quá trình này".

PGS-TS Nguyễn Thị Hồng Nguyệt đánh giá Việt Nam có nhiều tiềm năng về phát triển năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn đối với NLTT như chưa có dự luật chính sách cụ thể, hiện còn nằm rải rác ở nhiều văn bản luật khác nhau. Việt Nam cũng chưa hoàn thành quy hoạch tổng thể quốc gia về phát triển NLTT, chưa kể hiện nay còn bị giới hạn công suất NLTT. Cùng đó các vấn đề về cơ sở hạ tầng, công nghệ còn thiếu và yếu...

Chưa kể, nước ta còn đối mặt với nhiều thách thức như đảm bảo an ninh cung ứng điện, tính hợp lý về giá cả và khả năng cạnh tranh, các thách thức về môi trường, tính bền vững và cân bằng hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan.

Nhiều đề xuất gỡ vướng

Để hướng tới tăng trưởng xanh, ông Tống Viết Thành cho biết Sở TN&MT đã xác định một số nhiệm vụ trọng tâm. Cụ thể là tiếp tục rà soát, tham vấn Bộ TN&MT để hoàn thiện khung pháp lý, triển khai quy hoạch xử lý chất thải và văn bản quy phạm pháp luật về quản lý rác thải trên địa bàn TP.

Đồng thời ưu tiên chuyển đổi công nghệ xử lý rác sinh hoạt hiện hữu theo hướng hiện đại, thân thiện với môi trường theo tinh thần Nghị Quyết 98.

Bên cạnh đó là đa dạng hóa hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường gắn với việc xây dựng, triển khai thực hiện đề án giảm phát thải trên địa bàn TP.

Tiếp tục nghiên cứu, triển khai thực hiện các mô hình thí điểm, thực hiện phân loại rác tại nguồn để từng bước hoàn thiện, nhân rộng các mô hình phân loại, tái chế chất thải theo hướng tuần hoàn vật liệu, giảm phát sinh chất thải hướng đến nền kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh…

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Lương Thanh Hải cho rằng mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp về NLMT ngoài giá điện chiết khấu thương mại là việc có được chứng chỉ xanh. Đây là điều ưu tiên bậc nhất của các doanh nghiệp Việt Nam, vì thế rất cần sự hỗ trợ từ nhiều bên.

thao-luan-xanh.jpg
GS TS Lê Thanh Hải - Viện trưởng viện môi trường và tài nguyên ĐH Quốc gia TPHCM trao đổi tại diễn đàn. Ảnh: HOÀNG GIANG
phat bieu.jpg
Ông Nguyễn Quốc Anh - Chủ tịch hội cao su nhựa TPHCM phát biểu ý kiến tại phiên thảo luận Thách thức và giải pháp cho ngành sản xuất, năng lượng tái tạo và quản lý rác thải đô thị, công nghiệp" . Ảnh: HOÀNG GIANG
doanh nhan.jpg
Ông Lư Nguyễn Xuân Vũ - Chủ tịch CLB Doanh nhân Sài Gòn chia sẻ tại diễn đàn. Ảnh: HOÀNG GIANG
DAI BIEU 9.jpg
PGS TS Phùng Chí Sỹ - Phó chủ tịch Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam phát biểu tại diễn đàn. Ảnh: Hoàng Giang
ba dai bieu.jpg
PGS TS Phạm Thị Thanh Xuân - Phó viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển công nghệ ngân hàng trường ĐH Kinh tế Luật phát biểu tại diễn đàn. Ảnh: Hoàng Giang

Đối với vấn đề NLTT, PGS - TS Nguyễn Thị Hồng Nguyệt cũng cho rằng cần nhiều trợ lực để thúc đẩy khuyến khích DN tham gia. Trong đó cần khung pháp lý, thể chế. Tiếp đến là chính sách về nguồn lực.

Đối với khung pháp lý thể chế, cần luật hóa về năng lượng tái tạo, lập quy hoạch và kế hoạch phát triển NLTT, xác định ưu tiên cho các loại hình năng lượng theo thời kỳ. Tiếp tục cải cách thủ tục, quy trình... có cơ chế liên thông, phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước.

Ngoài ra, cần gợi mở nền kinh tế thị trường gồm thực hiện nền kinh tế thị trường, hoàn thiện cơ chế đấu thầu, hợp đồng mua bán điện phù hợp, mở cửa và đảm bảo cạnh tranh, kết nối với thị trường trong khu vực và thế giới.

PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Nguyệt đề xuất các chính sách về nguồn lực. Trước hết cần chính thúc đẩy cơ sở hạ tầng, trong đó hoạch định mở rộng hệ thống NLTT, đầu tư về dung lượng dự trữ năng lượng, tiếp tục đầu tư cho lưới điện về hệ thống truyền tải điện, áp dụng công nghệ mới và hiện đại. Cùng đó là xây dựng và công bố các tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan NLTT.

PGS-TS Nguyễn Thị Hồng Nguyệt, Trưởng Khoa Kinh tế, Trường ĐH Tài nguyên và Môi trường TP.HCM trình bày tại diễn đàn. Ảnh: NHƯ NGỌC

PGS-TS Nguyễn Thị Hồng Nguyệt, Trưởng Khoa Kinh tế, Trường ĐH Tài nguyên và Môi trường TP.HCM trình bày tại diễn đàn. Ảnh: NHƯ NGỌC

Tiếp đến, chúng ta cần có chính sách về công nghệ và đổi mới. Trong đó ưu tiên đầu tư và áp dụng công nghệ mới, có chính sách ưu tiên chuyển giao công nghệ. Cần có chính sách về nguồn lực nhân sự, với việc đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng áp dụng công nghệ và xử lý linh hoạt.

Với chính sách liên quan tài chính và đầu tư, cần chính sách ưu tiên hỗ trợ tín dụng, đất đai, ưu tiên thuế, phí và các chính sách ưu đãi về đầu tư và thu hút vốn đầu tư, chính sách về giá thu – mua, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan.

Song song với đó, phải tăng cường công tác truyền thông về NLTT và có chính sách khuyến khích sử dụng NLTT.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm