PLO xin giới thiệu toàn văn tham luận của Đoàn Đại biểu Đảng bộ TP.HCM với tựa đề "Các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh - từ thực tiễn TP.HCM".
***
Đoàn Đại biểu Đảng bộ TP.HCM bày tỏ sự nhất trí cao với các văn kiện do Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI trình Đại hội XII của Đảng. Trong năm năm qua, cùng với thành quả quan trọng đạt được, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục.
Kính thưa Đại hội,
TP.HCM đã được Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị xác định “là một đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu, động lực có sức thu hút và sức lan tỏa lớn của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước”. Trong bối cảnh chung của cả nước, năm năm qua, quán triệt và phấn đấu thực hiện các nghị quyết của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ; phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, đoàn kết, năng động, sáng tạo, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TP nỗ lực “đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả lĩnh vực”, trong đó vị trí kinh tế TP ngày càng khẳng định, chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong nền kinh tế cả nước, từ thực tiễn TP đã “góp phần để Trung ương nghiên cứu hoàn thiện đường lối đổi mới của Đảng, đặc biệt trên hai vấn đề lớn là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”[1].
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng của TP là đô thị đặc biệt, chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế còn chậm; chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế chưa cao; TP đã đề ra nhiều giải pháp khắc phục nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tìm các động lực phát triển mang tính đột phá. Trên bình diện cả nước, Trung ương đã đề ra nhiều nghị quyết, ban hành nhiều bộ luật, luật trong nỗ lực hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng nhìn chung, vẫn còn nhiều bất cập, chưa thực sự tạo động lực khuyến khích sự năng động của các địa phương, chưa tạo ra được những đột phá trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế. Đoàn Đại biểu Đảng bộ TP.HCM tin tưởng với mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ, giải pháp được Đại hội XII quyết định sẽ tạo ra những đột phá mạnh mẽ, tạo sức bật mới để vượt qua khó khăn, thách thức mới trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới ngày càng sâu rộng.
Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: TTXVN
Đoàn Đại biểu Đảng bộ TP.HCM hoàn toàn đồng tình với những mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh được đề ra trong các văn kiện trình Đại hội XII. Từ thực tiễn, TP.HCM xin được nhấn mạnh năm nội dung chính yếu sau đây trong việc định hình các giải pháp về nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thế chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nội dung cốt lõi nhất để thúc đẩy nâng cao chất lượng tăng trưởng
Ưu tiên cho chất lượng tăng trưởng thay vì tốc độ tăng trưởng, là cơ sở tăng trưởng nhanh và bền vững hơn trong tương lai. Sự chuyển hướng ưu tiên cho chất lượng tăng trưởng sẽ tập trung vào: (1) Sử dụng toàn diện và hiệu quả các nguồn lực; (2) Đảm bảo an sinh xã hội; (3) Các khuôn khổ thể chế cho một nền tảng quản trị tốt. Các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng do đó rất đa dạng, bao quát trên nhiều khía cạnh: từ nâng cao sự đóng góp của khoa học công nghệ đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ phát triển các ngành có giá trị gia tăng cao đến phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng, đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa,… và an sinh xã hội, từ giữ vững tốc độ tăng trưởng cao và bền vững đến đảm bảo các chỉ tiêu về chất lượng cuộc sống, đảm bảo chăm lo toàn diện đời sống nhân dân.
Chính những ràng buộc về cơ chế vận hành trong các điều kiện cụ thể về nguồn lực, về môi trường, về các ngành có giá trị gia tăng cao, về phát triển khoa học công nghệ, về nâng cao năng suất,... là những yếu tố tạo nên những động cơ cho tăng trưởng, quyết định khoảng cách giữa chủ trương và hiện thực. Các giải pháp về nâng cao chất lượng tăng trưởng phải khơi thông các tắc nghẽn trong cơ chế ngành và liên ngành, hình thành được các động cơ khuyến khích, tích hợp được các chiến lược sử dụng hiệu quả và huy động được các nguồn lực trong xã hội.
TP.HCM cùng với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là một địa bàn có rất nhiều tiềm năng và lợi thế, đặc biệt là trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tuy nhiên do chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để phát huy và khai thác có hiệu quả những tiềm năng và lợi thế ấy nhằm đóng góp cho đất nước ngày càng nhiều hơn. Vì vậy, trong thiết kế cơ chế, chính sách rất cần chú trọng vào hình thành các động lực, phù hợp với điều kiện từng vùng, miền; tạo không gian chủ động cho các địa phương.
Quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần tạo đột phá trong cải cách hành chính và tài chính công; quy định minh bạch ba cơ chế về phân quyền, phân cấp và ủy quyền cho địa phương; đồng thời tạo cơ chế để tăng cường hiệu lực kiểm tra, thanh tra của Chính phủ đối với chính quyền địa phương; trong đó nghiên cứu tập trung hơn nữa vào ba nhiệm vụ : (1) Hoạch định chính sách; (2) Ban hành các quy định và (3) Kiểm tra, giám sát, chế tài vi phạm.
Thứ hai, chú trọng đặc thù ở những đô thị, phát huy vai trò động lực của các đô thị để nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh
Động lực cho chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nằm ở các vùng kinh tế trọng điểm, trong đó có các đô thị. Tuy nhiên, hệ thống cơ chế, chính sách quản lý đô thị và cơ chế liên kết vùng nhìn chung không theo kịp yêu cầu phát triển. Các loại quy hoạch theo chức năng và không gian hiện có, nhiều về số lượng nhưng vai trò còn hạn chế trong nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh, thể hiện qua kết quả phát triển, liên kết vùng còn hạn chế, nguồn lực phân tán và không phát huy được hiệu quả kinh tế theo quy mô, các vấn đề đô thị xử lý theo lợi ích riêng lẻ của từng địa phương. Các tỉnh, thành trước thúc ép tăng trưởng và thu hút vốn đầu tư thường thông qua những biện pháp phía cung để thúc đẩy kinh tế; sự lan tỏa và giao thoa tích cực về kinh tế không được tận dụng triệt để.
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế gồm bốn yếu tố: (1) Thể chế kinh tế; (2) Các chính sách và quy định về môi trường kinh doanh; (3) Các kết nối cứng như cơ sở hạ tầng về giao thông, viễn thông, năng lượng và hệ thống logistics; (4) Các kết nối mềm như sự sáng tạo và lan tỏa công nghệ, hệ thống giáo dục và đào tạo, hệ sinh thái sáng tạo cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, văn hóa doanh nghiệp, điểm giao về thông tin và sở hữu trí tuệ, thu hút nhân tài qua các điều kiện sống và môi trường làm việc, dịch vụ tài chính phát triển, mở cửa và kết nối với thế giới. Những yếu tố này gắn kết với chất lượng tăng trưởng, như một tổng hòa không thể tách rời. Việc phân quyền, phân cấp, ủy quyền mạnh mẽ cho các đô thị sẽ tạo điều kiện, không gian cho sự chủ động, sáng tạo, để có khả năng phát triển hài hòa và toàn diện bốn yếu tố của năng lực cạnh tranh.
Thứ ba, nâng cao năng suất lao động, tích tụ và lan tỏa tri thức là tác nhân quan trọng nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh
Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới chính sách để khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nâng cao năng suất thông qua hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị, phát triển các kết nối giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tại địa phương, nâng cao chất lượng quản trị của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tập trung thu hút có chọn lọc đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào những ngành có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, những ngành sản xuất thân thiện môi trường, công nghiệp xanh. Khuyến khích, tạo điều kiện để các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đổi mới công nghệ; khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động sáng tạo công nghệ đối với cá nhân các nhà khoa học, đồng thời khuyến khích hình thành các vườn ươm doanh nghiệp công nghệ, vườn ươm công nghệ cao thương mại điện tử,… khuyến khích hình thành nhiều doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Nghiên cứu đổi mới chính sách tài trợ của Nhà nước cho khoa học và công nghệ chuyển từ việc bao cấp ở đầu vào sang tài trợ đầu ra đối với sản phẩm khoa học và công nghệ.
Sử dụng hiệu quả công cụ chính sách kinh tế - tài chính để thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nội bộ các ngành kinh tế, theo đó, cần tiếp tục đổi mới các chính sách về thuế, phí đất đai, đầu tư công, cung ứng dịch vụ công,... nhằm khuyến khích có điều kiện để thúc đẩy các doanh nghiệp tăng tỉ lệ nội địa hóa sản phẩm và hình thành những “cụm liên kết sản xuất” nhằm chuyển nền công nghiệp từ gia công sang sản xuất. Thực hiện chính sách thuế ưu đãi đối với doanh nghiệp chấp nhận rủi ro ứng dụng công nghệ trong nước để phát triển các sản phẩm mới hoặc chuyển từ giai đoạn gia công sang giai đoạn sản xuất linh kiện, phụ kiện. Nếu có chính sách động lực tốt sẽ khuyến khích các doanh nghiệp chuyển từ giai đoạn gia công sản phẩm cho nước ngoài sang giai đoạn nghiên cứu sản xuất linh kiện phụ kiện, thúc đẩy phát triển thị trường công nghệ.
Nhà nước không làm thay thị trường, mà tập trung tạo môi trường, động lực, phát huy vai trò của thị trường trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Trong đó, đầu tư phát triển và đồng bộ hóa kết cấu hạ tầng; thu hút phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công, nhằm cải thiện tốt môi trường đầu tư là những việc làm cấp bách.
Phát triển hệ thống thông tin có tính kết nối, liên thông cao đồng bộ trong quản lý nhà nước và kinh tế - văn hoá - xã hội; kết nối với hệ thống dữ liệu và tri thức từ các viện, trường, doanh nghiệp. Thông tin phong phú, hữu ích, được tổ chức tốt, giảm thiểu chi phí tiếp cận, tạo cơ sở phát triển các bộ chỉ số đánh giá, khuyến khích xây dựng các mô hình lượng hóa phân tích toàn diện các khía cạnh của chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh.
Thứ tư, sử dụng hội nhập quốc tế như động lực để nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh
Hội nhập không phải là mục tiêu, mà là phương tiện để phục vụ đổi mới toàn diện phát triển đất nước. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế, phát huy tối đa nội lực để tạo ra sự đột phá trong nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh, bảo vệ nền sản xuất trong nước. Tích cực, chủ động về mọi mặt, quán triệt tư tưởng trong Đảng và trong Nhân dân để nhận thức về các cơ hội mới, vận hội mới, chuẩn bị tốt nguồn lực và năng lực để đương đầu thắng lợi với các thách thức mới. Chủ động tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao (đặc biệt là tám ngành có sự chuyển dịch lao động tự do trong Cộng đồng kinh tế ASEAN- AEC)[2], có phẩm chất, bản lĩnh chính trị, năng lực; chủ động nắm lấy thời cơ và đương đầu với các thách thức; nêu cao tinh thần độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập.
Để sử dụng hội nhập quốc tế như động lực nhằm nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh, đề xuất quan tâm ba yếu tố: (1) Hệ thống thông tin theo dõi các loại thị trường phải được tổ chức tốt và hiệu quả để đủ cơ sở phân tích những tác động, dự báo được các biến động, rủi ro khi tham gia vào sân chơi quốc tế; (2) Xây dựng và phát triển các kênh kết nối giữa chính quyền với doanh nghiệp, củng cố vai trò trung gian kết nối của chính quyền, tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ cho các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, để từng bước định hình năng lực của doanh nghiệp tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu; (3) Đặc biệt chú ý đến thị trường tài chính và thị trường bán buôn - bán lẻ, theo dõi các biến động, dự báo nguy cơ và tận dụng thời cơ để có những chiến lược tác động phù hợp.
Thứ năm, nâng cao chất lượng tăng trưởng phải nhằm đảm bảo an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân
Nâng cao chất lượng tăng trưởng phải đi đôi với quá trình hoàn thiện và phát triển dần năng lực cung ứng các dịch vụ công cho nhân dân, đảm bảo khả năng tiếp cận ngày càng tốt hơn của người dân đối với các dịch vụ cơ bản có chất lượng; sự tham gia của nhân dân trong quy trình ra các quyết định về chính sách; tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý Nhà nước trong các quyết định về chính sách, quản lý, điều hành; đảm bảo sự an toàn về môi trường, an ninh, sức khỏe của nhân dân.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo an sinh xã hội, nhằm nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân trong những lĩnh vực thiết yếu như: phát triển ngành y tế hiện đại, kỹ thuật cao đáp ứng tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, giảm bớt tình trạng quá tải ở các bệnh viện; đầu tư và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống y tế cơ sở; tập trung bảo vệ môi trường, giảm thiểu, thích nghi với biến đổi khí hậu; đầu tư, hoàn thiện hệ thống cung cấp nước sạch; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; giải quyết tốt các vấn đề bức xúc của xã hội, tạo điều kiện để mọi người đều có việc làm và thu nhập ổn định, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động; thực hiện giảm nghèo bền vững. Xây dựng các thiết chế văn hóa, không ngừng phát triển đời sống văn hóa tinh thần của Nhân dân. Gắn phát triển kinh tế với thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo cho mọi người dân công bằng trong tiếp cận giáo dục, y tế, văn hóa, thụ hưởng các thành quả phát triển kinh tế, thành tựu của sự nghiệp đổi mới.
Quán triệt sâu sắc tinh thần “vì cả nước, cùng cả nước”, TP.HCM luôn xác định trách nhiệm cao với nhân dân cả nước; phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng, đoàn kết, năng động, sáng tạo, huy động mọi nguồn lực, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, quyết tâm hoàn thành mục tiêu Đại hội X Đảng bộ TP đề ra, tạo sự đột phá trong nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của kinh tế thành phố, không ngừng nâng cao chất lượng sống của nhân dân, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng./.
[1] Thông báo số 209-TB/TW ngày 7-9-2015 của Bộ Chính trị tại cuộc làm việc góp ý vào dự thảo các văn kiện và phương án nhân sự trình Đại hội lần thứ X Đảng bộ TP.HCM nhiệm kỳ 2015-2020.
[2] Tám lĩnh vực ngành nghề được tự do di chuyển trong cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) gồm: nha khoa, điều dưỡng, kỹ thuật, xây dựng, kế toán, kiến trúc, khảo sát và du lịch.