Xuất khẩu gạo sang Nhật: Kiểm soát hơn 600 loại chất khác nhau

(PLO)- Theo đại diện doanh nghiệp để xuất khẩu gạo sang Nhật phải đáp ứng hàng trăm chỉ tiêu về chất lượng.

Tại hội thảo với chủ đề "Xây dựng nền kinh tế tự lực, tự cường" tổ chức mới đây tại TP.HCM, ông Trương Sỹ Bá, Chủ tịch Tập đoàn Tân Long cho biết, công ty đã xây dựng thương hiệu gạo nội địa mang tên A An.

Từ năm 2022, Tân Long xuất khẩu gạo A An sang Nhật Bản. Tính riêng năm 2024, đạt sản lượng xuất khẩu gạo hơn 5.000 tấn hoàn toàn mang chính thương hiệu Việt Nam này, không qua bất kỳ nhãn mác trung gian nào.

"Với kế hoạch cho năm 2025, chúng tôi kỳ vọng sẽ xuất khẩu gạo đạt gần 30.000 tấn sang Nhật Bản. Điều đặc biệt, sản lượng này mang lại giá trị gia tăng rất cao. Có thể nói, xuất khẩu gạo 1.000 tấn sang Nhật Bản mang lại hiệu quả tốt hơn so với việc bán thông thường hàng chục ngàn tấn.

Để đạt được thành công xuất khẩu gạo sang thị trường Nhật, chúng tôi đã phải đầu tư rất bài bản vào quy trình sản xuất và kiểm soát chất lượng. Đặc biệt, việc kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong lúa gạo là vô cùng nghiêm ngặt", ông Trương Sỹ bá nói.

Theo ông Trương Sỹ Bá, khi xuất khẩu gạo sang Nhật Bản, họ kiểm soát đến hơn 600 loại chất khác nhau. Chỉ cần một trong số đó không đạt tiêu chuẩn, toàn bộ lô hàng xuất khẩu gạo sẽ bị trả về.

Chính vì vậy, mỗi khi lô hàng xuất khẩu gạo được vận chuyển, doanh nghiệp luôn mang theo một sự lo lắng lớn. Bởi lẽ, việc kiểm định sau đó có thể phát hiện ra bất kỳ sai sót nào và dẫn đến việc phải trả hàng, gây ra rủi ro rất lớn cho doanh nghiệp.

"Đối với lĩnh vực lúa gạo, chúng tôi đang tập trung đầu tư công nghệ hiện đại vào sản xuất, chế biến và bảo quản sau thu hoạch nhằm giảm thất thoát và giảm vật tư đầu vào cho bà con nông dân.

Tuy nhiên, việc đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao với lãi suất vay từ 8-10% thực sự là một thách thức lớn, bởi biên lợi nhuận trong ngành này rất thấp.

Chúng tôi rất mong ngân hàng xem xét đưa ra mức lãi suất ưu đãi hơn cho ngành nông nghiệp, đặc biệt là ưu tiên cho các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng chế biến, sản xuất và bảo quản sau thu hoạch", ông Bá kiến nghị.

Ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.HCM cho biết, Nghị quyết 68 của Trung ương là một hệ thống giải pháp toàn diện và chi tiết, không chỉ tác động tích cực đến hoạt động phát triển của kinh tế tư nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) mà còn trực tiếp cải thiện lĩnh vực ngân hàng.

Nghị quyết 68 đặt ra một từ khóa cốt lõi là đảm bảo các doanh nghiệp không còn làm ăn gian dối khi kinh tế tư nhân phát triển. Mục tiêu này không chỉ thúc đẩy sự lớn mạnh của khối doanh nghiệp tư nhân mà còn trực tiếp nâng cao hiệu quả chính sách tiền tệ tín dụng của Ngân hàng Nhà nước.

Đây là điều mà cộng đồng doanh nghiệp đặc biệt quan tâm, nhất là trong hai lĩnh vực: cho vay tín chấp và các cơ chế chính sách hỗ trợ.

Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế hỗ trợ SMEs, nổi bật là chính sách cho vay ưu đãi cho 5 nhóm ngành gồm xuất khẩu, nông nghiệp nông thôn, SEMs, công nghiệp hỗ trợ và ứng dụng công nghệ cao, với lãi suất ngắn hạn không vượt quá mức tối đa quy định.

Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng tín dụng trong các lĩnh vực này vẫn còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn.

Lý do chính là các chính sách hỗ trợ này thường đi kèm điều kiện, đặc biệt là yêu cầu về minh bạch và lành mạnh tài chính. Đây là một rào cản lớn mà nhiều SMEs chưa thể đáp ứng.

Nhằm giải quyết vấn đề này, Nghị quyết 68 đặt ra mục tiêu xây dựng hệ thống tài chính lành mạnh, chuẩn mực về kế toán và kiểm toán cho SMEs và khu vực kinh tế tư nhân.

Khi doanh nghiệp thực hiện tốt yêu cầu này, thông tin tài chính sẽ trở thành một nguồn dữ liệu vô giá giúp ngân hàng dễ dàng thẩm định, đánh giá khách hàng và chấm điểm tín dụng. Điều này sẽ trực tiếp thúc đẩy cho vay tín chấp và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp tiếp cận các chính sách hỗ trợ của nhà nước.

Theo ông Nguyễn Đức Lệnh, về mặt cơ chế chính sách, chính sách lãi suất hiện nay trên thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng là rất tốt, thấp hơn nhiều so với trước đây.

Cùng với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước và đặc biệt là kinh tế vĩ mô ổn định, đây là những điều kiện môi trường vô cùng thuận lợi để doanh nghiệp mở rộng và tăng trưởng.

Dư nợ tín dụng trên địa bàn TP. HCM đến cuối tháng 5 ước đạt 4,018 triệu tỉ đồng, tăng 3,6% so với cuối năm 2024 và tăng 13,8% so với cùng kỳ.

Đặc biệt, tín dụng cho nhóm 9 ngành dịch vụ, động lực tăng trưởng kinh tế của TP. HCM, chiếm khoảng 35,5% tổng dư nợ và đạt tốc độ tăng trưởng 3,6% so với cuối năm 2024.

Riêng tổng dư nợ tín dụng SMEs đạt con số trên 1,5 triệu tỉ đồng, chiếm 38,5% tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn và trong 4 tháng đầu năm 2025 tăng gần 10% so với cùng kỳ 2024.

Những kết quả này khẳng định rằng các cơ chế chính sách về lãi suất, tỉ giá và môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi đang hỗ trợ mạnh mẽ doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm

Đọc nhiều
Tiện ích
Tin mới