Người dân vùng tạm chiếm từ lạ lẫm đến háo hức với cuộc sống kháng chiến.
Trưởng tổ Văn nghệ Ban chuyển quân tập kết
huẩn bị kỷ niệm Ngày Độc lập 2-9-1954, Sở Thông tin Nam bộ và Chi hội Văn nghệ tổ chức chương trình văn nghệ biểu diễn trên sân khấu ở sân vận động. Văn công nhân dân Nam bộ tập hợp trên trăm người của hai phân liên khu miền Đông và miền Tây thay phiên nhau tập dượt cả tuần tại sân khấu rạp Huê Tinh.
Nhận mặt thần tượng
Đêm biểu diễn văn nghệ là sự kiện chưa từng thấy, dài trên bốn tiếng, có thêm các nghệ sĩ cải lương và tân nhạc ở Sài Gòn xuống tham gia. Khán giả trong và ngoài thị trấn Cà Mau lũ lượt kéo đến khi mặt trời chưa lặn, ngồi xếp hàng trước sân khấu háo hức chờ xem.
Hoạt cảnh Mùa lúa chín với tốp nam nữ phục trang trai gái đồng ruộng tay liềm gặt lúa đang diễn ra, tới đoạn giọng nữ trong vắt, chợt vài khán giả Sài Gòn vỗ tay, chỉ lên sân khấu: “Kia kìa, đúng là sơn ca Khánh Vân hồi nẵm hát trên đài Pháp Á nổi tiếng các bài Biệt đô thành, Tiếng còi trong sương đêm của Lê Trực đó...”.
Sau đó, khán giả suýt xoa, tấm tắc khi biết tác giả bài Mùa lúa chín chính là nhạc sĩ Hoàng Việt, tức Lê Trực năm xưa.
Tiết mục ngâm thơ gây hiệu quả bất ngờ khi thi sĩ Hoàng Phố diễn ngâm giọng hùng tráng bài Chiều ly hận của Hà Mậu Nhai. Khán giả tán thưởng nhiệt tình, tạo đà cho nhà văn Đoàn Giỏi hưng phấn, ngâm tiếp bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của nhà thơ Tố Hữu.
Hàng ngàn khán giả im phăng phắc chăm chú nghe. Tới đoạn cao trào phấn khích, khán giả hò reo lặp lại câu thơ hưởng ứng: “Hồ Chí Minh muôn năm! Muôn năm! Muôn năm!...”; “Dân tộc anh hùng! Dân tộc anh hùng! Dân tộc anh hùng!”...
Khán giả được dịp gặp mặt thân mật các nhạc sĩ Đài tiếng nói Nam bộ kháng chiến mà trước đây chỉ nghe giới thiệu trong phần văn nghệ tối Chủ nhật hàng tuần như Quách Vũ, Lưu Cầu, Đăng Đạo, Hoàng Mãnh, Minh Đạo, Quang Hải, các ca sĩ Quốc Hương, Khánh Vân, Xuân Mai, Nguyễn Thị Hòa...
Các anh chị em này thuộc thành phần học sinh tiểu tư sản thành thị. Phần đông yêu thích văn nghệ, vào kháng chiến rồi trở thành nghệ sĩ chuyên nghiệp. Buổi biểu diễn kết thúc chuyển thành cuộc giao lưu, hàn huyên quanh sân khấu.
Ngày lễ Độc lập
Sáng ngày 2-9-1954, mít-tinh trọng thể khai mạc, giới thiệu đầy đủ Ủy ban Kháng chiến Nam bộ, đại diện các đoàn thể, phái đoàn nhân sĩ trí thức, ký giả Sài Gòn xuống dự.
Sau mít-tinh là cuộc diễu hành của đoàn quân văn nghệ trên đường phố. Kèn trống rộn ràng. Cờ đỏ sao vàng phất phới khắp các nẻo đường.
Khẩu hiệu khổ lớn, khổ nhỏ “Hoan hô hòa bình lập lại ở Đông Dương!”, “Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!”, “Hồ Chủ tịch muôn năm!”, “Nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình muôn năm!” căng dày đặc trước nhà lồng chợ, ngã ba, ngã tư, nhà làm việc...
Song song với biểu diễn văn nghệ còn có cuộc đón tiếp đại diện phái đoàn chính phủ trung ương Trần Huy Liệu, nhà phê bình văn học Hoài Thanh, họa sĩ Nguyễn Mười và phái đoàn Ủy ban Liên hợp đình chiến từ Hà Nội vào.
Phái đoàn gặp gỡ lãnh đạo các cấp và thăm hỏi đồng bào Nam bộ, các vị khách Sài Gòn là các nhà trí thức, văn nghệ sĩ và ký giả quen thuộc từng biết nhau và giữ liên lạc trong chín năm ở bưng biền, gồm có Ba Du, Tám Danh, Tám Củi, U Đa (Ba Đua), Lương Nhân, Kim Nhị, Vũ Hoàng, Ba Còn, Trần Tấn Quốc, Tư Trang, Năm Châu....
Đài kháng chiến chào từ biệt
Tối ngày 1-12-1954, đúng giờ phát thanh thường lệ, sau lời chào với giọng xúc động, nữ phát thanh viên Phi Nga xướng lên: “Bắt đầu từ ngày mai, Tiếng nói Nam bộ sẽ ngưng phát thanh... Bộ biên tập cùng nhân viên của đài sẽ lên đường tập kết ra Bắc...”.
Máy thu thanh trong các tiệm nước, hàng quán, nhà tư nhân và loa truyền thanh công cộng phát mồn một buổi phát thanh chào tạm biệt của Đài tiếng nói Nam bộ kháng chiến. Thính giả lặng người, trong lòng nóng ran nuối tiếc.
Trước cách mạng tháng 8-1945, toàn cõi Đông Dương thuộc Pháp chỉ có một đài phát thanh của Pháp. Vậy mà sau hai năm kháng chiến, đài kháng chiến đã dõng dạc lên tiếng từ Đồng Tháp Mười um tùm cỏ lác, lau sậy.
Quân đội Pháp tốn bộn tiền tập trung tay nghề kỹ thuật vô tuyến truy lùng. Pháp dùng máy định vị hiện đại để phát hiện địa điểm phát sóng, rồi cho máy bay khu trục bất ngờ ào đến thả bom.
Lần khác, Pháp tập hợp đại quân càn quét đốt trụi Đồng Tháp Mười rồi về Sài Gòn mời ký giả đến họp khoe: “Cắt đứt cái lưỡi Việt Minh rồi!”. Vậy mà sau đó, đúng bảy giờ tối, tiếng nữ xướng ngôn viên trịnh trọng: “Đây là Đài tiếng nói Nam bộ kháng chiến, phát thanh trên làn sóng 34 m...”.
Địch nổi khùng bèn gây nhiễu để dân không nghe đài được. Đài kháng chiến chật vật cả tháng cũng tìm được cách lách sóng. Đài đã hai lần di chuyển qua lại từ Đồng Tháp Mười về rừng U Minh, luồn lách trót lọt qua đồn bót kiểm soát.
Khi tăng thêm chương trình tiếng Pháp, tiếng Hoa, tiếng Khmer và phát thanh sáu buổi mỗi ngày, nhân sự của đài kháng chiến “nở nồi” ra, tụ hội những người rành rẽ chữ nghĩa Tây, Tàu, Khmer. Tính ra lúc hưng thịnh, đài có tới trên trăm người. Bởi vậy, phía Pháp đánh giá đài phát thanh Việt Minh mạnh bằng hỏa lực một đạo binh thiện chiến.
Xem phim kháng chiến
Trong những ngày chuyển quân tập kết, chương trình chiếu phim ngoài trời không đêm nào nghỉ. Các đội chiếu phim lưu động phục vụ ngay đêm đầu tiếp quản các thị trấn từ Giá Rai, Hộ Phòng xuống Tắc Vân, Cà Mau và quanh vùng ven.
Trong các thị trấn vùng tạm chiếm trước đó, người dân chẳng lạ lẫm gì xinê, hát bóng. Nhưng xem xong phim kháng chiến thì dân thành thị hay nông thôn đều bàn tán sôi nổi vì nhiều cái lạ quá.
Các phim Trận Mộc Hóa, Trận La Ban, Chiến dịch Cầu Kè... quay trực tiếp tại mặt trận. Hai bên xáp chiến, bom đạn ngất trời!
Khán giả xem xong so sánh với các anh bộ đội đang đóng quân sờ sờ tại thị trấn Giá Rai (tiểu đoàn 308) và Cà Mau (tiểu đoàn 307). Họ bàn tán, không hiểu làm cách nào nơi sình lầy nước đọng như vùng kháng chiến mà có thể quay phim được.
Một loạt phim từ ngoài Bắc mang vào càng làm cho lòng dân, quân thêm phấn khởi như phim Đại hội Đảng lần thứ hai, Đại hội thống nhất Việt Minh-Liên Việt. Lại có phim Liên Xô Lê-nin trong cách mạng tháng 10 và hình ảnh đại nguyên soái Staline trong phim Chiến trận châu Âu.
Tận dụng thời gian đang tiếp quản, ban lãnh đạo thị trấn cấp cho đội chiếu phim chiếc canô lưu động chở máy chiếu chạy vòng giáp vùng ven Cà Mau để đồng bào được xem trọn vẹn phim kháng chiến. Đặc biệt, đội sẵn sàng chiếu phim ban ngày theo yêu cầu của một ấp lưa thưa chỉ chừng chục nóc gia.
| Quách Vũ là sinh viên trường thuốc Hà Nội cùng thời với Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng. Ca sĩ Nguyễn Thị Hòa giọng Huế ngâm thơ ru hồn, cùng Quốc Hương với biệt danh “ca sĩ vũ trang” luôn mang khẩu súng ngắn Vickers xề xệ bên hông và hát một lúc ba bài mới đã. z Đỗ Hồng Lan, nữ sinh trường áo tím là ca sĩ, phát thanh viên tiếng Pháp đầu tiên của Đài tiếng nói Nam bộ đóng tại Quảng Ngãi năm 1946, rồi Đài tiếng nói Đồng Tháp Mười năm 1947 cũng ở Quảng Ngãi; đến Đài tiếng nói Nam bộ kháng chiến ở Đồng Tháp Mười (Nam bộ) và Đài Sài Gòn-Chợ Lớn tự do (miền Đông Nam bộ)... |
_________________________________
Những ngày chuyển quân tập kết - Bài 1: Đi hay ở đều vinh quang!
MINH TRỊ