Đòi nhà sau 44 năm bỏ quên

Mới đây, TAND Cấp cao tại TP.HCM đã bác kháng cáo của một nguyên đơn khởi kiện đòi nhà vì cho rằng căn cứ khởi kiện không vững chắc. Điều khá lạ trong vụ này là người khởi kiện cho thuê nhà xong rồi bỏ lơ, mãi 44 năm sau mới đi đòi.

Theo hồ sơ, năm 1963 gia đình ông T. cho gia đình bà C. thuê một căn nhà ở quận Tân Bình, TP.HCM. Việc thuê nhà hai bên không làm hợp đồng mà chỉ giao kèo bằng miệng. Năm năm sau, một trận hỏa hoạn thiêu rụi căn nhà. Lúc này gia đình bà C. bỏ tiền ra xây nhà mới trên nền đất ngôi nhà cũ đã bị cháy. Cũng thời gian này, không có ai trong gia đình ông T. qua lại và cũng từ đó phía ông T. cũng không thu tiền thuê nhà nữa.

Mấy chục năm trôi qua, bản thân ông T. và bà C. lần lượt qua đời. Với căn nhà thì con cháu bà C. tiếp tục tu sửa và cư ngụ cho đến nay. năm 2007 con cháu ông T. mới đến yêu cầu con cháu bà C. giao lại căn nhà cho mình. Khi yêu cầu của mình không được chấp nhận thì họ khởi kiện ra tòa. Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu nếu con cháu bà C. muốn sở hữu luôn căn nhà thì trả cho bên mình 600 triệu đồng. Trong trường hợp đồng ý trả nhà và dọn đi thì nguyên đơn hỗ trợ bị đơn 100 triệu đồng...

Không đồng tình, con cháu bà C. trình bày trước tòa là gia đình họ cư trú tại căn nhà trên từ năm 1963. Năm 1999, bị đơn đã đứng ra kê khai quyền sở hữu và đóng thuế đầy đủ cho Nhà nước. Xử sơ thẩm, TAND TP.HCM bác yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn và tuyên bố căn nhà trên thuộc quyền sở hữu của phía gia đình bà C. nguyên đơn không đồng ý nên đã kháng cáo.

Tại phiên xử phúc thẩm, hai bên giữ nguyên quan điểm ban đầu. Tòa phúc thẩm nhận định Phòng Quản lý đô thị quận Tân Bình xác minh căn nhà trên do ông T. tự xây cất và sử dụng không phép trên đất công từ năm 1961. Ông T. có đăng ký kê khai một lần duy nhất vào năm 1977 nhưng sau đó không kê khai đăng ký về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất thêm lần nào nữa. Quá trình sử dụng nhà, ông T. cũng không đóng thuế sử dụng đất. Thứ hai là việc cho thuê nhà chỉ thỏa thuận miệng giữa hai bên chứ không có giấy tờ, văn bản nào. Ngoài ra thời điểm kê khai năm 1977 (của gia đình ông T.) và năm 1999 (của gia đình bà C.) thì căn nhà chưa có giấy tờ sở hữu hợp pháp.

Từ đó HĐXX xét thấy nguyên đơn khởi kiện đòi nhà nhưng không có chứng cứ về quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Nguyên đơn cũng không chứng minh được việc bị đơn ở nhờ hoặc thuê nhà. Bản kê khai năm 1977 của ông T. không có đầy đủ cơ sở xác định quyền sở hữu nhà và đất ở. Trong khi đó gia đình bà C. đã cư trú tại đây từ năm 1963 và có kê khai đăng ký quyền sở hữu nhà, đất. Đồng thời, phía bị đơn cũng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế cho đến nay. Vì thế án sơ thẩm xử là có căn cứ nên bác kháng cáo của nguyên đơn.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm