Mới đây, TAND cấp cao tại TP.HCM đã tuyên hủy án vụ Nguyễn Thị Tuyết Vân lừa đảo chiếm đoạt tài sản. HĐXX đồng tình với nhận định của đại diện VKSND rằng vụ án có nhiều vấn đề chưa làm rõ, việc điều tra chưa đầy đủ, chưa đối chất mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được.
Trước đó, bị cáo Vân bị TAND tỉnh Bình Dương tuyên phạt 13 năm tù. Sau đó Vân kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do án tuyên không đúng với lời khai của bị cáo. Tại phiên xử phúc thẩm, bị cáo kêu oan và xỉu lên xỉu xuống. Cạnh đó, vụ án này từng mở phiên tòa nhiều lần phải hoãn vì có lời khai của bị cáo phát sinh nhiều vấn đề.
Theo hồ sơ, ông Trần Văn Sái và Vân chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1995 tại huyện Dầu Tiếng. Hai người không đăng ký kết hôn và có hai con chung. Năm 1999, ông Sái nhận sang nhượng một phần đất hơn 15.000 m2. Do ông Sái là Việt kiều Campuchia về nước và tạm trú có thời hạn nên để Vân đứng tên làm thủ tục cấp giấy tờ nhà, đất. Năm 2001, Vân đứng tên sổ đỏ miếng đất này.
Bị cáo Nguyễn Thị Tuyết Vân xỉu nhiều lần, tòa phải tạm nghỉ. Ảnh: HY
Quá trình vợ chồng chung sống, Vân đã nhiều lần tự ý dùng giấy tờ đất đứng tên mình để chuyển nhượng cho người khác lấy tiền tiêu xài hoặc vay tiền người khác mà không cho ông Sái biết. Hậu quả của việc chuyển nhượng không đúng trên khiến hợp đồng bị vô hiệu. Từ đó, vụ việc được tòa xét xử và cơ quan thi hành án đã tiến hành kê biên mảnh đất này bán đấu giá lấy tiền trả nợ.
Theo đó, từ 14-9-2011, Vân không còn quyền lợi vì giấy tờ đất đứng tên Vân đã bị phát mại một phần để thanh toán nợ vay. Phần còn lại được giao cho ông Sái quyền quản lý sử dụng. Tuy vậy, ngày 20-10-2011, Vân lại tự ý ký hợp đồng chuyển nhượng đất trên cho ông Lê Văn Tuấn với giá 600 triệu đồng. Ông Tuấn giao đủ tiền và nhận giấy tờ đất từ Vân. Khi ông Tuấn làm thủ tục sang tên mới biết phần đất này đã bị thi hành án kê biên bán đấu giá cho người khác trước khi ông và Vân ký hợp đồng chuyển nhượng. Biết bị lừa, ông Tuấn liền tố cáo ra công an.
Xử sơ thẩm, TAND tỉnh Bình Dương nhận định dù bị cáo quanh co không thừa nhận hành vi nhưng từ lời khai của các bên cùng các chứng cứ tài liệu đã đủ cơ sở kết tội bị cáo.
HĐXX phúc thẩm cho rằng theo lời khai của bị cáo thì hợp đồng chuyển nhượng đất trong trường hợp này là có điều kiện nhưng cấp sơ thẩm không đưa một người có liên quan vào tham gia tố tụng, làm rõ. Đồng thời cấp sơ thẩm chưa làm rõ việc cưỡng chế thi hành án phần đất đó bị cáo có được biết hay không. Trong khi lời khai của bị cáo và mẹ bị cáo thống nhất là chỉ nhận một giấy triệu tập, còn ông Sái cho là không nhận. Vì vậy vẫn chưa rõ bị cáo có biết việc kê biên, bán đấu giá đất hay không... Từ đó tòa hủy án để cấp sơ thẩm điều tra, xét xử lại.