Tuy nhiên, việc chuyển hộ khẩu gần như bế tắc vì hộ khẩu bản chính có tên con ông giờ không biết ở đâu.
Theo ông Tuấn trình bày, năm 2001 vợ chồng ông đăng ký kết hôn. Tuy là vợ chồng nhưng hai người có hộ khẩu ở hai nơi. Vợ ông là chủ hộ ở một địa chỉ quận 10 còn ông lại đăng ký thường trú ở quận 5. Cưới xong, hai vợ chồng thuê một căn nhà sống ở huyện Bình Chánh.
Năm 2002, vợ ông sinh được một bé trai và nhập hộ khẩu con theo mẹ ở quận 10. Tháng 9-2017, vợ ông bị bệnh qua đời. Sau khi lo mai táng cho vợ xong, ông bắt đầu làm thủ tục chuyển hộ khẩu cho đứa con về nhập chung hộ khẩu của ông. Rắc rối phát sinh khi ông đến làm thủ tục chuyển hộ khẩu ở Công an quận 10, công an yêu cầu ông phải xuất trình được bản chính hộ khẩu của vợ nhưng sổ ấy ông không rõ ai đang giữ.
Cha con ông Tuấn đến báo Pháp Luật TP.HCM nhờ giúp đỡ.
“Trước khi vợ mất, tôi được biết hộ khẩu của cô ấy do một người chị vợ giữ nhưng khi tôi đến hỏi thì chị ấy nói không biết. Giờ tôi không cách nào tìm ra sổ ấy để cắt hộ khẩu cho con. Không có hộ khẩu, mỗi lần con tôi đi làm các thủ tục hành chính rất khó khăn. Rất mong các cơ quan giúp đỡ, tạo điều kiện cho con tôi được chuyển hộ khẩu để bảo đảm quyền lợi của trẻ sau này” - ông Tuấn bày tỏ.
Trao đổi với chúng tôi, Thiếu tá Vũ Nguyên Khoa, Phó Đội trưởng Đội Cảnh sát quản lý hành chính và trật tự xã hội Công an quận 10, cho biết theo khoản 4 Điều 28 Luật Cư trú quy định hồ sơ cấp giấy chuyển hộ khẩu bao gồm hộ khẩu và phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu. Như vậy, công dân muốn chuyển hộ khẩu thì phải xuất trình được hộ khẩu bản chính.
Với trường hợp của ông Tuấn, do ông không có tên trong hộ khẩu cùng với con trai, vợ ông đã mất, hộ khẩu ông cũng không cung cấp được thì ông có thể đến Công an quận 10 làm bản tường trình sự việc. Nếu xét thấy việc chuyển hộ khẩu cho con ông xuất phát từ nhu cầu chính đáng thì công an sẽ hỗ trợ chuyển hộ khẩu. Được biết hộ khẩu mà trước đây vợ ông Tuấn làm chủ hộ hiện tại do ông PMD, anh vợ ông Tuấn, là chủ hộ và có một nhân khẩu là con ông.
Theo quy định tại khoản 8 Điều 10 Thông tư 35/2014, người đứng tên chủ hộ có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho những người cùng có tên trong hộ khẩu được sử dụng sổ để giải quyết các công việc theo quy định của pháp luật. Trường hợp cố tình gây khó khăn, không cho những người cùng có tên trong hộ khẩu được sử dụng sổ để giải quyết các công việc theo quy định của pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật.