Công thức 1+1+1
Giống như một trận đá banh, kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông 2009 có thể nói được Bộ GD và ĐT thiết kế chặt chẽ nhất từ trước tới nay, theo công thức 1+ 1+ 1. Đó là:
1) Thi cụm trường;
2) 12 mã đề thi trắc nghiệm/ phòng thi 24 thí sinh;
3) Tăng cường thanh tra uỷ quyền của Bộ GD.
Diễn biến kỳ thi được ngành chủ quản và ngay cả các cơ quan công luận cũng thừa nhận, là kỳ thi được tổ chức tốt nhất, bởi không có những hiện tượng, sự cố nghiêm trọng và kỷ luật phòng thi khá yên ả.
Cho đến thời điểm này, báo cáo của 64 tỉnh, t/p trong cả nước gửi về cho ngành GD tính toán ra một tỷ lệ tốt nghiệp khá cao: 83,8% (cao hơn tỷ lệ đỗ lần 1 của năm 2008 là 7,8%, và thấp hơn tỷ lệ đỗ cả 2 lần thi của năm 2008 là 2,8%). Phần lớn các địa phương (50/63 tỉnh, t/p) tỷ lệ đỗ tốt nghiệp đều tăng.
Dù vậy, những chuyên gia GD am hiểu không ai đánh giá chất lượng GD năm nay tăng hơn năm trước dựa trên những yếu tố sau:
- Đề thi dễ hơn hẳn những năm trước, vì năm nay ngành GD chủ trương chỉ còn 1 lần thi, không có lần thi vét, và do một vài yếu tố tâm lý xã hội khác.
- Tỷ lệ thí sinh đỗ tốt nghiệp loại trung bình cao hơn năm trước (83,8%; năm 2008 là 76%), trong khi số thí sinh đỗ loại khá, giỏi không cao hơn.
Nhìn tổng thể, tỷ lệ tốt nghiệp của kỳ thi không có gì đáng chú ý. "Lưới" của ngành GD có thể vẫn yên lành, không bị rung lên, nếu…
“Lắt léo” những đường bóng?
… Khi nhìn vào kết quả cụ thể của các tỉnh, lại có những thông số bất ngờ. Có đến 7 tỉnh, tỷ lệ tốt nghiệp tăng cao vọt. Đó là Nghệ An: Tăng cao so với năm trước 25%, tiếp đó, Cao Bằng, Hoà Bình, Lai Châu (tăng 23%); và Yên Bái, Hà Giang, Phú Thọ (tăng 20%). Bởi GD là cả một quá trình, cũng vẫn điều kiện ấy, đội ngũ ấy, trường sở ấy, mới chỉ có một năm, mà “chất lượng tăng vọt”, quả là điều không bình thường, là rất khó tin.
Bên cạnh đó, cũng có 13 tỉnh có tỷ lệ đỗ tốt nghiệp giảm thấp. Giảm nhiều nhất là Hà Tĩnh, giảm 16%; Sơn La, 14%; Đồng Tháp, 10%; Ninh Thuận, Hậu Giang, 7%; An Giang, 5%...
Nhưng xin đừng vội mừng cho các tỉnh giảm tỷ lệ tốt nghiệp là “thi nghiêm túc”, bởi đó đều là những tỉnh, năm trước- kỳ thi 2008, chấm khá “lỏng tay” ở những môn tự luận (do các tỉnh tự chấm). Kết quả chấm thẩm định của Bộ GD với những tỉnh có tỷ lệ tốt nghiệp cao đột biến năm trước cho thấy, tỉnh thấp nhất có 25% số bài (môn thi tự luận) chấm tăng điểm, tỉnh cao nhất tới 90% (!) số bài môn thi tự luận chấm tăng điểm, có những bài chấm tăng tới 3 điểm.
Nay, bài thi tự luận được “chấm chéo” giữa các tỉnh không theo kiểu “tráo đổi nhau” như trước mà theo thế kiềng 3 chân: A chấm B; B chấm C, thì tỷ lệ tốt nghiệp giảm không có gì khó hiểu.
Đến thời điểm này, công việc đầu tiên của Bộ GD là gửi công văn về các địa phương có tỷ lệ thi tăng cao đột biến, đề nghị giải thích. Về phía mình, Bộ GD sẽ phân tích dữ liệu cụ thể các phòng thi…
![]() |
| Thí sinh xem lại bài thi tốt nghiệp 2009. Ảnh: Phạm Hải |
Trắc nghiệm và tự luận: “Cặp đôi” cần đến lúc chia tay
Đáng chú ý, bài thi các môn trắc nghiệm chấm chính xác 100%, không có “sự cố” nào đáng chú ý.
Trong khi đó, nổi lên tại kỳ thi năm nay, môn Văn (tự luận), có 3 tình: An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp do kết quả chấm thi quá thấp, đã đề nghị Bộ GD xem xét. Xem xét kỹ, kết quả chấm thi chéo giữa các tỉnh cho thấy:
- Mục đích chấm chéo: Tốt
- Đề thi Văn: Hay
- Biểu điểm chấm đến 0,25 điểm: Bình thường, không có gì đặc biệt.
Nhưng vì sao kết quả lại thấp đến mức không bình thường? Câu trả lời: Do trình độ đội ngũ giáo viên chấm thi của các tỉnh chấm chéo nhau đều nằm ở “vùng trũng” của GD (vùng yếu kém, khó khăn, chậm phát triển). Tâm lý lo ngại chấm sai so với quy định, khiến họ luôn bám sát biểu điểm của Bộ, dẫn đến bỏ qua những phần sáng tạo, phần mở của thí sinh, khiến thí sinh bị thiệt. Trong khi đặc thù môn Văn không chỉ là kiến thức, mà còn là cảm xúc, nhận thức cá nhân, là ý, là tình, là tâm của người viết…
Điều này càng thấy rõ, nếu nhìn vào kỳ thi tuyển sinh đại học. Gần chục năm ngành GD tổ chức thi “3 chung”, biểu điểm môn Văn thi ĐH cũng được quy định từ 0,25- 0,5 điểm, nhưng đội ngũ chấm thi là các giảng viên ĐH, trình độ tương ứng với yêu cầu, nên đã không xảy ra hiện tượng bất thường như vừa qua.
Theo dõi và phân tích kết quả các môn thi trắc nghiệm mấy năm qua, mặc dù mỗi hình thức thi có điểm mạnh, điểm yếu khác nhau, nhưng thực tiễn cho thấy, chấm thi trắc nghiệm cho kết quả vừa nhanh, vừa chính xác, vừa khách quan. Trong khi đó, chấm thi theo hình thức tự luận ở diện rộng do thiếu các yếu tố đồng bộ, dễ gây nên những tranh cãi, những kết quả rất bất ngờ.
Mặt khác cũng phải thấy, sự lắt léo của những tỷ lệ thi tốt nghiệp tăng vọt không bình thường, sự lên xuống thất thường về tỷ lệ thi tốt nghiệp không phản ánh trung thực hoạt động dạy và học, khó đánh giá chính xác chất lượng GD các địa phương cho thấy, về hình thức thi, đã đến lúc ngành GD cần mạnh dạn hơn nữa việc mở rộng các môn thi trắc nghiệm.
Đề thi trắc nghiệm, nếu chất lượng thực sự chuẩn, vẫn bảo đảm các yếu tố vận dụng, suy luận và nắm vững kiến thức của thí sinh.
Ngành GD không nên chần chừ, giải pháp “nửa vời” theo kiểu “nửa chuyên môn (3 môn trắc nghiệm), “nửa chính trị" (3 môn tự luận) để làm an lòng dân cũng rất “nửa vời” như hiện nay. Bởi nếu kéo dài nhân duyên “cặp đôi” cập kênh này, ngành GD sẽ còn tiếp tục tốn kém tiền của, sức người, rốt cục, ngành vẫn tiếp tục chịu điều tiếng, mà cũng rất khó ngăn chặn tiêu cực thi cử.
Thi “2 trong 1” khả thi, nếu…
Đến tận thời điểm này, ý kiến số đông trong dư luận xã hội vẫn rất “dị ứng” với chủ trương đổi mới thi cử, “2 trong 1” của ngành GD. Dư luận có lý bởi không ai có thể yên tâm với cách thức tổ chức thi tại các địa phương hiện nay vốn không nghiêm túc, tiêu cực rất bí ẩn. Nếu “2 trong 1”, áp lực càng lớn, tiêu cực càng cao.
Nhưng ngành GD cũng có lý của mình, do:
- 2 kỳ thi rất sát nhau về thời gian, vừa căng thẳng, vừa tốn kém.
- Nội dung thi giống nhau, vì đều phải bám sát chương trình lớp 12, tuy độ khó khác nhau. Có thể tuyển chọn mục tiêu (tốt nghiệp THPT hay tuyển sinh ĐH) thông qua mức độ, yêu cầu của đề thi. Vấn đề là làm thế nào?
Chủ trương đổi mới thi cử của ngành, trong đó có thi “2 trong 1” cần có cái nhìn xa hơn, xuất phát từ thực tiễn đặc điểm GD, và cần giải quyết đồng bộ tổng thể các giải pháp. Đó là:
1- Nên khôi phục lại kỳ thi tốt nghiệp trung học cơ sở: Để củng cố chất lượng từ cấp học này, đồng thời có sự phân luồng giảm áp lực cho quy mô và kỳ thi tốt nghiệp THPT.
2- Hình thức thi trắc nghiệm: Cần mở rộng tới tất cả các môn thi, kể cả môn Văn, trừ phần “Làm Văn” (tự luận), và số lượng mã đề thi trắc nghiệm phải là 24 mã đề/ phòng thi, bảo đảm mỗi thí sinh có một mã đề riêng, không ai giống ai. Với các trường ĐH cần thi cả phần “Làm Văn” (tự luận), có thể tổ chức thi như những môn đặc thù của các trường có môn thi năng khiếu.
3- Tổ chức thi: Không tổ chức tại các địa phương, mà thi theo các cụm thi ĐH như thi tuyển sinh hiện nay.
Một câu hỏi đặt ra, và đây chính là điều nhiều địa phương băn khoăn. Đó là với những học sinh không có nhu cầu thi tuyển sinh ĐH, thì sao? Câu trả lời từ Bộ GD: Những học sinh này, nếu đáp ứng yêu yêu cầu, sẽ được cấp chứng chỉ chứng nhận có trình độ hết cấp THPT. Với chứng chỉ này, các em có thể được xét tuyển vào các trường trung cấp chuyên nghiệp, trường nghề. Nếu sau này, muốn thi tuyển sinh ĐH, các em sẽ tham dự kỳ thi “2 trong 1” với tư cách thí sinh tự do.
Không hội tụ và quyết liệt đồng bộ các giải pháp, sự “lắt léo” của những yếu tố may rủi, tiêu cực bí ẩn, rất có thể làm “thủng lưới” chủ trương đổi mới thi cử của ngành.
Theo Kim Dung (TuanVietNam)
