Trong đơn xin ly hôn, bà TT trình bày: Bà và ông CT kết hôn năm 2008, đến tháng 6-2015 thì mâu thuẫn. Bà về nhà cha mẹ ruột ở, nay tình cảm không còn nên bà xin ly hôn. Về con chung, ông bà không có. Về tài sản chung, bà TT khai gồm nhiều vật dụng sinh hoạt và một căn nhà hơn 80 m2 nằm trên mảnh đất gần 300 m2. Năm 2015, ông CT tự ý tặng nhà đất cho cha ông nên bà yêu cầu tòa hủy hợp đồng tặng cho và chia đôi nhà đất.
Trong khi đó, ông CT nói nhà đất do cha ông tặng cho riêng ông từ năm 2013. Căn nhà được sửa lại từ tiền của em ông ở nước ngoài gửi về. Nhà đất này không phải là tài sản chung của vợ chồng nên ông không đồng ý chia.
Tháng 8-2016, TAND quận Ô Môn xử sơ thẩm đã hủy hợp đồng tặng cho nhà đất của ông CT với cha ông, giao nhà đất cho ông CT nhưng buộc ông phải trả lại một nửa giá trị nhà đất (hơn 190 triệu đồng) cho bà TT. Sau đó, ông CT kháng cáo.
Theo TAND TP Cần Thơ, về căn nhà, ông bà khai thống nhất là nhà có trước khi kết hôn nhưng không có giá trị, sau khi sửa lại mới có giá trị hơn 200 triệu đồng. Ông CT khai em ông cho tiền sửa nhà nhưng không chứng minh được. Bà TT thì khai tiền sửa nhà do vợ chồng để dành, bán nữ trang cưới và vay ngân hàng. Bà chứng minh được có vay ngân hàng vào thời điểm sửa nhà, ông CT không phủ nhận, cũng không chứng minh được bà vay tiền dùng vào việc khác. Từ đó, tòa xác định căn nhà là tài sản chung nên chia đôi. Ông CT được sở hữu nhà nhưng phải trả lại 1/2 giá trị nhà (hơn 107 triệu đồng) cho bà TT.
Về đất, tòa cho rằng nguồn gốc đất là của cha mẹ ông CT để lại. Tháng 6-2013, cha ông CT làm hợp đồng tặng đất cho ông CT. Suốt quá trình làm thủ tục sang tên cho ông CT, bà TT không tham gia cũng không có ý kiến. Năm 2015, ông CT được cấp đổi giấy đỏ cũng không có tên bà TT nhưng bà không khiếu nại. Cha ông CT xác định chỉ tặng cho riêng ông CT. Vì thế, tòa xác định đất là tài sản riêng của ông CT, được cha cho riêng trong thời kỳ hôn nhân nên yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho của ông CT với cha ông là không phù hợp.