Pháp Luật TP.HCM xin lược thuật bài viết này.
Bài viết mở đầu với phần giới thiệu bối cảnh tranh chấp chủ quyền trên biển Đông: “Hai năm qua, nguy cơ xung đột leo thang chỉ từ những vụ việc tương đối nhỏ đã gia tăng trên biển Đông. Xuất hiện những tranh chấp ít có khả năng đi đến đàm phán hay có giải pháp. Ban đầu, tranh chấp nổi lên sau Thế chiến II, khi các quốc gia ven biển - Trung Quốc và ba nước khác trong khối ASEAN là Indonesia, Malaysia và Philippines, sau đó đến Việt Nam - tranh nhau chiếm hữu các hòn đảo ở đó”.

Dầu hỏa và khí đốt
| Tác giả Leszek Busynski đã nhầm lẫn khi đưa Indonesia vào số các quốc gia có liên quan đến tranh chấp chủ quyền trên biển Đông. Nói chính xác thì số này bao gồm Trung Quốc, lãnh thổ Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei và Việt Nam - hoặc tuyên bố chủ quyền toàn diện hoặc tuyên bố chủ quyền một phần quần đảo và khu vực biển Trường Sa. Indonesia không tham gia và cũng không chiếm hữu hòn đảo nào. Ngoài ra, cách diễn đạt “sau đó đến Việt Nam” cũng sai, vì gây hiểu nhầm rằng Việt Nam chỉ tham gia tranh chấp chủ quyền trên biển Đông như một nước đến sau. |
Ông phân tích tình hình năng lượng của các bên liên quan như sau:
“Với việc nhu cầu năng lượng toàn cầu gia tăng, những nước tiêu thụ nhiều như Trung Quốc buộc phải tìm kiếm các nguồn mới để thỏa mãn nền kinh tế đang phình to của mình. Vào năm 2009, Trung Quốc trở thành nước tiêu thụ dầu lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ và lượng tiêu thụ của họ chắc chắn sẽ tăng gấp đôi trước thời điểm năm 2030 để họ trở thành nước tiêu thụ dầu nhiều nhất thế giới. Vào năm 2010, họ nhập khẩu 52% lượng dầu của mình từ Trung Đông và cả Saudi Arabia và Angola cộng lại sẽ chiếm 66% lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc. Trung Quốc đã và đang đa dạng hóa nguồn cung cấp năng lượng để giảm sự phụ thuộc vào dầu nhập khẩu; họ cũng tìm cách đẩy mạnh khai thác ngoài khơi, xung quanh khu vực lòng chảo Châu Giang (Pearl River) và biển Đông”.
“…Việt Nam là nước sản xuất dầu lớn trong khu vực. Năm 2010, Công ty quốc doanh Petro Vietnam sản xuất 24,4 triệu tấn, tức là 26% tổng sản lượng của Việt Nam, từ ba mỏ trên biển Đông. Do sản lượng ở các mỏ đã đi vào hoạt động đang bị suy giảm, Petro Vietnam đã ký 60 hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí với các công ty ngoại quốc khác nhau, nhằm khai thác nguồn năng lượng mới. Tuy nhiên, các mỏ mới này ít có khả năng bù đắp được cho thiệt hại: Khi Việt Nam tìm cách khai thác mỏ mới, nguy cơ là sẽ xảy ra xung đột mới với Trung Quốc - nước đã liên tục, nhất quán phản đối việc Việt Nam ký hợp đồng khai thác với các công ty dầu quốc tế trên biển Đông.
Trung Quốc chỉ trích các nước ASEAN liên quan đã xâm phạm vào vùng biển của họ và tuyên bố họ có quyền chống lại. Chẳng hạn vào ngày 26-5-2011, hai tàu hải giám Trung Quốc đã cắt cáp thăm dò dầu khí của một tàu khảo sát Việt Nam đang trên đường tìm kiếm mỏ dầu và khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cách bờ biển phía nam Việt Nam khoảng 120 km. Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố những đoạn băng cho thấy một con tàu Trung Quốc quả thật đã cắt đứt cáp nối với con tàu Bình Minh của Việt Nam. Khương Du, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, tuyên bố rằng tàu Trung Quốc đang tiến hành “các hoạt động khảo sát và thực thi quyền trên biển hoàn toàn bình thường trong khu vực thuộc quyền tài phán của Trung Quốc”. Tới ngày 9-6, một tàu cá Trung Quốc tương tự đã làm rối cáp của một con tàu khảo sát khác của Việt Nam.
Philippines cũng gặp nhiều rắc rối với Trung Quốc. Manila đã cố gắng nâng cao tính hiệu quả của hoạt động sản xuất dầu, đặt mục tiêu tăng sản lượng 60% cho đến cuối năm 2011, một điều mà họ ít có khả năng đáp ứng. Họ dự định mời chào 15 hợp đồng trong vài năm tới, khai thác dầu khí ngoài khơi đảo Palawan, trong một khu vực mà Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền. Năm 2011, Philippines tố cáo là có tới bảy vụ việc Trung Quốc phá rối họ. Một trong các vụ đó là vào ngày 2-3, hai tàu tuần tra Trung Quốc gây sự với một tàu thăm dò dầu ở khu vực Philippines tuyên bố chủ quyền, cách Palawan 250 km về phía tây. Họ rời khỏi khu vực sau khi Philippines điều không quân đến. Ngày 5-4, Manila đệ trình thư phản đối chính thức lên LHQ và vận động ASEAN ủng hộ để cùng có một lập trường chung về vấn đề này. Vài ngày sau, Trung Quốc có phản ứng đáp trả, chính thức buộc tội Philippines “xâm nhập” vùng biển của họ”.
Cuộc chiến tranh vì cá
“Việt Nam cho biết tính từ năm 2005 đến nay, 63 tàu cá cùng 725 ngư dân đã bị phía Trung Quốc bắt trên biển Đông; sau đó tất cả họ đều bị đòi tiền phạt với mức cắt cổ thì mới được thả. Trong một vụ việc gây sự chú ý lớn của dư luận Việt Nam, một tàu tuần tra Trung Quốc đã bắt tàu cá Việt Nam cùng 12 ngư dân khi họ đang hoạt động quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa, tháng 3-2010. Đây không phải lần đầu tiên Trung Quốc làm điều này và Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối ầm ĩ.
Trung Quốc áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá hằng năm trên biển Đông, họ coi đó là một cách bảo tồn đàn cá của mình. Lần đầu tiên Trung Quốc ban lệnh cấm đó là vào năm 1999, từ tháng 6 tới tháng 7 hằng năm và tới năm 2009 thì họ mở rộng lệnh cấm thành ra từ ngày 16-5 đến ngày 1-8 mỗi năm. Mức độ cấm rất mơ hồ - họ chủ ý giữ sự mơ hồ như vậy - mặc dù lệnh cấm trùm lên một khu vực bao quanh quần đảo Hoàng Sa nhưng lại không vươn xa xuống phía nam tới quần đảo Trường Sa. Việt Nam phản đối kịch liệt, bởi lẽ lệnh cấm ảnh hưởng tới sinh kế của các ngư dân Việt. Để thực thi lệnh cấm và bảo vệ các tàu cá của mình, Trung Quốc phái đến khu vực cái mà họ gọi là “tàu ngư chính” (tuần tra nghề cá) nhưng thực chất đó chính là những tàu hải quân bí mật. Trung Quốc cũng đã tuyên bố kế hoạch tăng cường lực lượng hải giám lên 16 máy bay và 350 tàu biển từ nay tới năm 2015. Số máy bay và tàu này sẽ được sử dụng để giám sát hoạt động tàu bè trên biển, thực hiện các nhiệm vụ khảo sát, “bảo vệ an ninh hàng hải” và thanh kiểm tra các tàu nước ngoài hoạt động “trên vùng biển của Trung Quốc”.
Khi nhu cầu thì tăng lên mà dự trữ cạn kiệt, tranh chấp về cá chắc chắn sẽ gia tăng trên biển Đông, đặc biệt khi các nước có yêu sách đều nâng cấp hải quân và lực lượng tuần tra bờ biển”.
Tranh giành quyền lực
Sau các phân tích về mâu thuẫn xung quanh vấn đề năng lượng (dầu hỏa, khí đốt) và nguồn cá, Leszek Busynski đi đến nhận định, trên thực tế nếu chỉ có vậy thôi thì tranh chấp trên biển Đông không nhất thiết sẽ đưa đến căng thẳng và xung đột, vì có thể kiểm soát mọi việc thông qua cơ chế hợp tác đa phương, tham khảo nhiều tiền lệ khác nhau trên thế giới.
Tuy nhiên, ông cho rằng nguyên nhân quan trọng của tranh chấp hiện nay là cạnh tranh quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc. “Giờ đây, vấn đề đã đi quá xa, vượt ra khỏi phạm vi các yêu sách về chủ quyền và quyền tiếp cận các nguồn năng lượng, khi mà biển Đông đã trở thành trọng tâm chú ý của mối quan hệ cạnh tranh Mỹ-Trung trên vùng biển phía Thái Bình Dương. Kể từ khoảng năm 2010, biển Đông bắt đầu được gắn với những vấn đề chiến lược to lớn hơn, xoay quanh chiến lược hải quân của Trung Quốc và sự hiện diện chủ động hơn của Mỹ trong khu vực. Điều này khiến cho tranh chấp trở nên nguy hiểm và là một lý do để lo ngại, nhất là khi Mỹ đã tái khẳng định lợi ích của họ ở châu Á-Thái Bình Dương và thúc đẩy quan hệ an ninh với các nước ASEAN liên quan”.
Kỳ tới: Cuộc tranh giành địa vị siêu cường.
Đón đọc bài 2 vào Chủ nhật ngày 1-4
|
Bất chấp phản đối từ phía Trung Quốc, cả Việt Nam và Philippines đều có kế hoạch xúc tiến các dự án thăm dò khai thác khí đốt, hợp tác với các công ty nước ngoài. |
HOÀNG THƯ lược thuật
