Vợ yêu cầu ly hôn, chồng không thừa nhận con chung

(PLO)- Mâu thuẫn sau khi gia đình chồng sợ lây covid-19 từ vợ, người vợ yêu cầu ly hôn thì người chồng không chịu nhận con chung.

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

Mới đây, TAND huyện Cái Bè (Tiền Giang) xét xử sơ thẩm vụ án tranh chấp ly hôn, nuôi con và chia tài sản chung giữa chị P.T.T.A với anh N.T.N (cùng ngụ tại xã Mỹ Hội, huyện Cái Bè).

Theo hồ sơ và lời trình bày của chị A tại phiên tòa: Chị và anh N xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2020, có đăng ký kết hôn theo đúng quy định. Quá trình chung sống thì đến tháng 6-2022, chị A đi về nhà mẹ ruột sinh sống.

yêu cầu ly hôn
Ảnh minh họa: FRP

Khi ra khỏi nhà chồng thì chị A đã mang thai với anh N được hơn 2 tháng. Nguyên nhân chị A về nhà mẹ ruột là do lúc đó chị đang đi làm công ty nên gia đình anh N sợ bị covid, dùng lời lẽ không tốt, kỳ thị đối với chị.

Từ đó, chị A xin Tòa án giải quyết yêu cầu ly hôn với anh N.

Giữa chị A và anh N có một con chung là cháu P.K.T, sinh ngày 22-1-2023, hiện do chị A nuôi dưỡng nên chị A yêu cầu được nuôi con chung và anh N cấp dưỡng mỗi tháng 1 triệu đồng.

Về tài sản chung, chị A xác định hai bên không có tài sản chung. Khi chị A đi về nhà mẹ ruột có đem theo 20 chỉ vàng nhưng do anh N ghen tuông, không thừa nhận cháu bé là con chung, không đưa tiền chăm sóc thai nhi, chăm sóc con nên chị A đã bán hết số vàng nêu trên để lo cho hai mẹ con.

Trong quá trình giải quyết vụ ly hôn, anh N không thừa nhận cháu T là con của mình nên yêu cầu giám định ADN. Đồng thời, anh N yêu cầu được chia đôi số vàng, không đồng ý cấp dưỡng.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, tòa án đã nhận định: Tại phiên tòa anh N, chị A thống nhất thuận tình ly hôn nên căn cứ vào Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình, HĐXX công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị A và anh N.

Xét thấy cháu T do chị A sinh ngày 22-1-2023 là thời điểm anh N, chị A không còn sống với nhau khoảng hơn 6 tháng, còn trong thời kỳ hôn nhân và phù hợp với quy định tại khoản 1, Điều 88 của Luật Hôn nhân và gia đình: “Con được sinh ra trong thời gian 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân…”

Hơn nữa, kết quả giám định ADN giữa cháu T và anh N ngày 30-5 đã khẳng định giữa anh cháu T và anh N có quan hệ huyết thống cha.

Do đó, HĐXX có đầy đủ căn cứ để kết luận cháu T là con chung của chị A và anh N, buộc anh N phải cấp dưỡng nuôi con chung theo yêu cầu của chị A.

Ngoài ra, HĐXX còn nhận thấy khi anh N, chị A không còn ở với nhau, chị A đang mang thai đến khi sinh con đều do chị A lo chi phí sinh đẻ và nuôi con đến nay, anh N không tới lui thăm hoặc phụ chi phí sinh đẻ và nuôi con nên lời khai của chị A là có cơ sở nên HĐXX xác định hai bên không có tài sản chung.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm