Trong phiên xét xử ngày 20-1, đại diện VKS Tòa án quân sự Quân khu V đã đề nghị như trên đối với bị cáo Lê Xuân Chính về tội vi phạm các quy định về khai thác bảo vệ rừng.
Qua hồ sơ vụ việc và lời khai của các bị cáo liên quan tại tòa, đại diện VKS đã nhận định bị cáo Chính chính là chủ mưu trong vụ phá rừng pơ mu xảy ra tại huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam năm 2016.
Bị cáo Lê Xuân Chính tại tòa
Theo đại diện VKS, bị cáo Chính là người đã thuê Nguyễn Văn Quang khai thác gỗ pơ mu tại Nam Giang. Khi sự việc có dấu hiệu bị bại lộ, bị cáo đã điện thoại cho Quang và bảo người này sang Lào trốn một thời gian, khoảng 3-5 năm.
Tuy nhiên, trong thời gian này, bị cáo Quang đã không bỏ đi. Cho đến khi thôi nôi con, bị cáo Chính đã tiếp tục điện thoại bảo Quang nhanh chóng trốn sang Lào. Đồng thời, bị cáo Chính đã liên lạc bằng điện thoại với Tiêu Hồng Tư nói về việc bố trí tiền bạc và đưa Quang đi trốn.
Trong khi đó, bị cáo Quang cũng bị đề nghị mức án 30-42 tháng tù, số tiền mà bị cáo Quang bị đề nghị nộp để khắc phục hậu quả là 300 triệu đồng. VKS nêu nhận định bị cáo Quang là đồng phạm, người đã tham gia tích cực trong vụ việc phá rừng pơ mu.
Bị cáo Quang tại tòa
Theo đó, đại diện VKS nêu lời khai của bị cáo Quang tại tòa và các hồ sơ liên quan, bị cáo Quang đã thừa nhận những vi phạm của mình. Bị cáo Quang đã gọi những người khác vào tham gia khai thác và vận chuyển gỗ pơ mu ra khỏi rừng. Sau khi bị phát hiện, bị cáo đã bỏ sang Lào để trốn. Sau khi trở về Việt Nam và vào TP.HCM thì bị lực lượng chức năng bắt giữ để phục vụ điều tra.
Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Văn Sanh (cùng ngụ Quảng Bình) bị VKS đề nghị mức án 24-30 tháng tù. Theo đó, đại diện VKS xác định bị cáo Thắng là người được bị cáo Quang gọi đến để tiến hành khai thác gỗ pơ mu. Tại tòa, hai bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, các bị cáo đều trả lời không biết là đang khai thác gỗ pơ mu tại Việt Nam mà tưởng khu vực này thuộc địa phận Lào.
Các bị cáo tại tòa
Trong phiên tòa hôm nay, bị cáo Quang khai nhận bị cáo có nhận tiền của bị cáo Tư hai lần, trong đó lần đầu tiên là 100 triệu đồng do bị cáo Quang trực tiếp gọi điện cho Tư chuyển khoản. Lần thứ hai, bị cáo Quang gọi điện cho bị cáo Chính thì được Chính nói là tiền bạc để Tư lo.
Sau đó, Tư đã chuyển tiếp cho Quang 100 triệu đồng nữa. Số tiền này, Quang dùng để trả tiền cho nhóm nhân công vận chuyển gỗ, chi phí xăng nhớt… Bị cáo Quang cũng thừa nhận việc đã gọi điện cho Thắng và Sanh vào khai thác gỗ. Tuy nhiên, về địa điểm tập kết gỗ là do bị cáo Chính yêu cầu tập kết, còn Quang chỉ là người khai thác, vận chuyển.
Theo khai nhận, Quang quen biết với Chính vào cuối năm 2015 khi đang làm xây dựng tại khu vực cửa khẩu. Sau khi vụ phá rừng pơ mu bị phát hiện, Chính là người đã gọi điện cho Quang nói là kiểm lâm đã bắt gỗ, bảo Quang điện những người làm khác về quê. Sau đó, Quang đã cho những lao động khai thác về quê và bị cáo sang Lào trốn. Bị cáo khai nhận tại tòa là bị cáo chỉ là người làm thuê, việc có giấy phép hay không là do Chính và Tư.
Bị cáo Sanh thừa nhận có đi vận chuyển gỗ với một số người khác vì ở ngoài quê không có việc làm. Trước đó, Quang gọi Sanh vào xem thử coi có làm được thì làm, nếu không thì Quang cho tiền xe về. Sanh hỏi làm cho ai thì Quang nói làm cho ông Chính đồn biên phòng. Vị trí khai thác gỗ được Quang nói là bên Lào.
"Bị cáo nghe nói anh Chính đồn biên phòng nên cứ thế làm thôi. Phách gỗ được vận chuyển có phách cả trăm ký. Bị cáo không biết là đang khai thác ở Việt Nam vì trình độ học không đến nơi đến chốn. Khi bị cáo hỏi về khu vực khai thác thì được Quang nói là làm cho anh Chính đồn biên phòng. Bị cáo thấy vi phạm pháp luật nhưng chỉ là người làm thuê”, Sanh nói.
Tang vật liên quan trong vụ án
Về phần bị cáo Chính, trong phiên tòa chiều nay không thừa nhận việc đã hối thúc khai thác nhanh. Tuy nhiên, bị cáo này thừa nhận có gọi điện cho bị cáo Quang nói về việc khai thác đã bị phát hiện, nhưng Quang nói là đã cho anh em rút rồi. Về việc bị cáo Chính giúp bị cáo Quang đi Lào, bị cáo Chính cho rằng việc làm này là không sai, vì lúc này Quang chưa phải là người có tội.
Ngoài ra, đại diện VKS cũng đề nghị mức án 30-36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo đối với bị cáo Tiêu Hồng Tư, các bị cáo liên quan còn lại cũng bị đề nghị mức án 24-30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Về số tiền 200 triệu đồng liên quan đến vụ án mà bị cáo Tư đã chuyển cho bị cáo Quang, đại diện VKS đề nghị thu hồi nộp vào ngân sách nhà nước.
Phiên tòa sẽ tiếp tục lúc 7 giờ 30 sáng 21-1.