Đăng bí mật gia đình lên mạng xã hội: Đâu là giới hạn?

(PLO)- Vợ hoặc chồng không thể nhân danh sự thật hay cảm xúc cá nhân để tự ý đưa chuyện riêng của gia đình lên mạng xã hội...

Mới đây, Luật An ninh mạng 2025 đã được Quốc hội thông qua, gồm 8 chương, 45 điều, quy định về bảo đảm an ninh mạng; bảo vệ an ninh mạng; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2026.

Theo đó, Luật nghiêm cấm các hành vi chiếm đoạt, mua bán, thu giữ, hoặc cố ý làm lộ thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư, nếu gây ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Tuy nhiên, nhiều bạn đọc thắc mắc “bí mật gia đình” quy định ra sao?

Hiểu thế nào về bí mật gia đình?

ThS Liên Đăng Phước Hải, giảng viên Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM.

Theo ThS Liên Đăng Phước Hải, giảng viên Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM, có thể hiểu bí mật gia đình là những thông tin, sự kiện, tư liệu gắn với quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng hoặc các vấn đề nội bộ của một gia đình mà các thành viên mong muốn được giữ kín, không công khai ra xã hội.

Khác với bí mật cá nhân (gắn với một định danh cụ thể như về sức khỏe, di truyền...) hay bí mật đời tư (liên quan đến hoạt động và không gian sống riêng của cá nhân), bí mật gia đình mang tính tập thể, liên quan đồng thời đến nhiều thành viên và các mối quan hệ nội bộ trong gia đình.

Khi bị tiết lộ trái ý chí, các thông tin này không chỉ ảnh hưởng ở một các nhân mà còn tác động đến danh dự, uy tín, sự ổn định hoặc các mối quan hệ trong gia đình.

Hiện nay, khái niệm “bí mật gia đình” chưa được liệt kê hay định nghĩa ở các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, quyền này được quy định tại Điều 21 của Hiến Pháp năm 2013 và Điều 38 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cùng với đó là các quy định hiện hành về bảo vệ dữ liệu cá nhân và an toàn thông tin trên không gian mạng.

Việc không “định danh cứng” khái niệm này là hợp lý để bảo đảm tính linh hoạt, bởi lẽ chuẩn mực riêng tư của mỗi gia đình là khác nhau và có thể thay đổi theo thời gian.

ThS Phước Hải cho biết bí mật gia đình thường bao gồm những mâu thuẫn hôn nhân, thông tin về con nuôi, bệnh lý di truyền của gia đình, tình trạng hiếm muộn, tranh chấp thừa kế nội bộ, nguồn gốc tài sản… Nếu các thông tin này bị một cá nhân tự ý công khai lên mạng xã hội mà không có sự đồng thuận của những người liên quan, thì có thể bị coi là xâm phạm bí mật gia đình.

Điều 38 BLDS 2015 đã đặt ra một nguyên tắc rất rõ là thông tin thuộc bí mật gia đình chỉ được công khai khi có sự đồng ý của các chủ thể có liên quan, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (chẳng hạn như phục vụ điều tra, tố tụng...).

Điều này đồng nghĩa với việc vợ hoặc chồng không thể nhân danh sự thật hay cảm xúc cá nhân để tự ý đưa chuyện riêng của gia đình lên mạng xã hội. Phải hiểu rằng sự thật không phải là lý do để có thể xâm phạm quyền riêng tư và danh dự của người khác. Khi bạn tự ý đăng tải, bạn không chỉ “kể chuyện” mà đang trực tiếp xâm phạm quyền hiến định của các thành viên còn lại.

Theo ThS Phước Hải, hiện không ít vụ việc vợ, chồng dùng mạng xã hội như Facebook, TikTok… để “bóc phốt” lẫn nhau, từ tin nhắn riêng tư, hình ảnh, video của cá nhân cho đến các cáo buộc về đời sống hôn nhân. Dưới góc độ pháp lý, những hành vi này không còn là mâu thuẫn tình cảm đơn thuần, mà có thể bị coi là xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật gia đình và danh dự, nhân phẩm của người còn lại.

Ngay cả khi thông tin là sự thật (như việc ngoại tình...), việc tự ý công khai vẫn có thể bị coi là trái pháp luật nếu mục đích là làm nhục, xâm phạm đời tư.

Về chế tài xử lý, ở mức độ nhẹ, người vi phạm có thể bị xử phạt hành chính theo Nghị định 15/2020 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 14/2022), buộc gỡ bỏ thông tin và xin lỗi công khai. Nghiêm trọng hơn, hành vi xúc phạm, hạ nhục người khác trên không gian mạng có thể bị truy cứu TNHS về tội làm nhục người khác theo Điều 155 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Người bị xâm phạm hoàn toàn có quyền khởi kiện dân sự, yêu cầu bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm và tổn thất tinh thần.

Trong nhiều vụ việc, số tiền bồi thường không lớn bằng hệ quả pháp lý và xã hội mà người vi phạm phải đối mặt.

Xử lý đến đâu tùy mức độ

ThS Đặng Trần Kha, giảng viên Khoa Luật, Trường ĐH Hùng Vương TP.HCM

ThS Đặng Trần Kha, giảng viên Khoa Luật, Trường ĐH Hùng Vương TP.HCM, cho biết theo Luật An ninh mạng 2025, hành vi chiếm đoạt, mua bán, thu thập, sử dụng, công bố hoặc cố ý làm lộ thông tin thuộc bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư của cá nhân là hành vi bị nghiêm cấm.

Về xử phạt hành chính, các hành vi xâm phạm thông tin cá nhân trên môi trường mạng nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị xử lý theo Nghị định số 15/2020 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 14/2022).

Cụ thể, tại Điều 84 quy định phạt tiền từ 10-20 triệu đồng đối với hành vi thu thập thông tin cá nhân khi chưa có sự đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân về phạm vi, mục đích của việc thu thập và sử dụng thông tin đó; Cung cấp thông tin cá nhân cho bên thứ ba khi chủ thể thông tin cá nhân đã yêu cầu ngừng cung cấp.

Phạt tiền từ 40-60 triệu đồng đối với các hành vi sau: Sử dụng không đúng mục đích thông tin cá nhân đã thỏa thuận khi thu thập hoặc khi chưa có sự đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân; Cung cấp hoặc chia sẻ hoặc phát tán thông tin cá nhân đã thu thập, tiếp cận, kiểm soát cho bên thứ ba khi chưa có sự đồng ý của chủ thông tin cá nhân; Thu thập, sử dụng, phát tán, kinh doanh trái pháp luật thông tin cá nhân của người khác.

Mức phạt trên áp dụng đối với tổ chức, còn cá nhân vi phạm mức phạt bằng ½ mức phạt của tổ chức. Đồng thời, trong một số trường hợp vi phạm còn buộc hủy bỏ thông tin cá nhân đã thu thập trái pháp luật.

Theo Nghị định này, hành vi thu thập, sử dụng, phát tán, cung cấp thông tin cá nhân của người khác khi chưa được sự đồng ý hoặc trái quy định pháp luật có thể bị phạt tiền, đồng thời bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả như buộc gỡ bỏ thông tin vi phạm, thu hồi dữ liệu đã công bố trái phép.

Về trách nhiệm dân sự, căn cứ pháp lý trực tiếp là Điều 38 BLDS năm 2015, quy định đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công bố thông tin liên quan đến đời sống riêng tư của cá nhân phải được người đó đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi quyền này bị xâm phạm, người bị xâm hại có quyền yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai và yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự.

Về trách nhiệm hình sự, hành vi chiếm đoạt hoặc làm lộ thông tin bí mật cá nhân bị coi là tội phạm khi có đủ yếu tố cấu thành.

Các căn cứ hình sự thường được áp dụng gồm Điều 159 BLHS về tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác và Điều 288 BLHS về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông.

Việc truy cứu TNHS chỉ đặt ra khi hành vi được thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân khác, gây hậu quả đáng kể hoặc ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội.

3 “lớp” bảo vệ đời sống riêng tư

Dù cùng hướng tới mục tiêu bảo vệ đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình, nhưng Luật An ninh mạng 2025, Bộ luật Dân sự và Bộ luật Hình sự có cách tiếp cận và cơ chế bảo vệ hoàn toàn khác nhau.

Trước hết, Luật An ninh mạng 2025 tiếp cận vấn đề từ góc độ quản lý nhà nước về an ninh, trật tự trên không gian mạng. Trọng tâm của Luật này không phải là xử phạt hay bồi thường, mà là xác lập ranh giới pháp lý của các hành vi bị cấm, thiết lập cơ chế phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi xâm phạm thông tin cá nhân trong môi trường số.

Thông qua việc liệt kê rõ các hành vi bị nghiêm cấm, trong đó có hành vi chiếm đoạt, mua bán, cố ý làm lộ thông tin thuộc bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư, Luật An ninh mạng 2025 tạo cơ sở pháp lý để cơ quan chức năng yêu cầu gỡ bỏ thông tin vi phạm, thu thập chứng cứ điện tử, kiểm soát nguồn phát tán và chuyển hồ sơ sang các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo pháp luật hành chính, dân sự hoặc hình sự.

Trong khi đó, BLDS năm 2015 tiếp cận việc bảo vệ đời sống riêng tư và bí mật dưới góc độ quyền nhân thân của cá nhân. Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình là bất khả xâm phạm, được pháp luật bảo vệ. Pháp luật dân sự không tập trung vào yếu tố an ninh hay trật tự xã hội, mà đặt trọng tâm vào bảo vệ quyền lợi trực tiếp của người bị xâm hại.

Khi quyền này bị xâm phạm, cơ chế bảo vệ chủ yếu là yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại. Cách tiếp cận của Bộ luật Dân sự mang tính khôi phục, bù đắp và tái lập quyền, ít mang tính trừng phạt.

Đối với Bộ luật Hình sự, việc bảo vệ đời sống riêng tư và bí mật gia đình được đặt trong bối cảnh bảo vệ trật tự, an toàn xã hội và lợi ích công cộng. Bộ luật Hình sự chỉ điều chỉnh những hành vi xâm phạm quyền riêng tư khi hành vi đó đạt đến mức độ nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng và cần thiết phải xử lý bằng biện pháp hình sự.

Trọng tâm của Bộ luật Hình sự không phải là bồi thường cho người bị hại, mà là trừng phạt, răn đe và phòng ngừa chung thông qua chế tài là hình phạt (là loại chế tài nặng nề nhất). Do đó, không phải mọi hành vi làm lộ thông tin cá nhân đều bị xử lý hình sự, mà chỉ những hành vi thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Có thể thấy, sự khác biệt cốt lõi giữa các văn bản pháp luật nằm ở mục tiêu điều chỉnh và cơ chế bảo vệ. Luật An ninh mạng 2025 đóng vai trò là “hàng rào pháp lý” trên không gian mạng, tập trung vào phòng ngừa và kiểm soát hành vi. Bộ luật Dân sự là công cụ bảo vệ quyền cá nhân thông qua cơ chế dân sự, còn Bộ luật Hình sự là biện pháp xử lý nghiêm khắc cuối cùng khi hành vi xâm phạm quyền riêng tư gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.

Từ góc độ áp dụng pháp luật, các quy định này không loại trừ lẫn nhau mà bổ trợ cho nhau. Một hành vi làm lộ thông tin cá nhân trên mạng có thể đồng thời là hành vi bị cấm theo Luật An ninh mạng 2025, là căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự theo Bộ luật Dân sự, và trong trường hợp nghiêm trọng, còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự.

Việc lựa chọn cơ chế xử lý nào phụ thuộc vào tính chất, mức độ vi phạm và hậu quả thực tế của hành vi.

ThS ĐẶNG TRẦN KHA, giảng viên Khoa Luật, Trường ĐH Hùng Vương TP.HCM

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm

Đọc nhiều
Tiện ích
Tin mới