Nếu trước đây Bộ luật Lao động năm 2012 quy định người sử dụng lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước một khoảng thời gian nhất định cho người lao động.
Nay Bộ luật Lao động (sửa đổi) năm 2019, lần đầu tiên đưa ra quy định cho phép người sử dụng lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không cần báo trước cho người lao động khi người lao động không tuân thủ các quy tắc làm việc.
Cụ thể, khoản 3 Điều 36 Bộ luật Lao động (sửa đổi) năm 2019 quy định người sử dụng lao động không phải báo trước cho người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong hai trường hợp sau:
Thứ nhất, người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.
Theo đó, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn tạm hoãn hợp đồng lao động, người lao động phải có mặt tại nơi làm việc. Người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm công việc theo hợp đồng lao động đã giao kết nếu hợp đồng lao động còn thời hạn, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.
Thứ hai, người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ năm ngày làm việc liên tục trở lên.
Đồng thời Bộ luật Lao động (sửa đổi) năm 2019 cũng quy định người lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không cần báo trước cho người sử dụng lao động trong các trường hợp sau:
- Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận.
- Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn.
- Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động.
- Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc.
- Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc nếu có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi.
- Đủ tuổi nghỉ hưu.
- Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực cho người lao động khi giao kết hợp đồng lao động.
Bộ luật Lao động (sửa đổi) năm 2019 có hiệu lực từ ngày 1-7-2020.