Trước đây, do chưa có quy định, hướng dẫn nên không ít người cứ đinh ninh rằng người THCV chết, nghỉ hưu hoặc họ không còn làm việc cho các cơ quan nhà nước thì sẽ thoát nạn. Nay thì chắc chắn suy nghĩ ấy sẽ không còn tồn tại, đồng thời sẽ giúp việc chấp hành pháp luật được nghiêm hơn.
Tôi xin góp thêm một ý kiến là khi đã có hướng dẫn rồi thì chúng ta quyết liệt làm cho đến nơi đến chốn. Cần xem xét trách nhiệm hoàn trả của người THCV một cách đầy đủ, toàn diện, thống nhất trên thực tiễn. Phải truy tới cùng ngay cả với những người đã mất. Lúc đó người thừa kế phải thực hiện tiếp nghĩa vụ này trong phạm vi di sản được hưởng theo các quy định pháp luật dân sự về thừa kế. Dù có ý kiến cho rằng số tiền hoàn trả cho Nhà nước là quá thấp so với số tiền mà Nhà nước đã chi trả bồi thường cho người bị thiệt hại (mức hoàn trả tối đa không quá ba tháng lương hiện hưởng nếu có lỗi vô ý, tối đa không quá 36 tháng lương nếu lỗi cố ý nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự và hoàn trả 100% nếu lỗi cố ý mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự) nhưng thiết nghĩ trước mắt cứ làm theo quy định. Mức hoàn trả này có thể chưa tương xứng nhưng “có còn hơn không”. Bởi dù sao nó cũng là một biện pháp chế tài giúp người THCV ý thức hơn về hoạt động công vụ của mình. Đặc biệt sẽ góp phần răn đe, ngăn ngừa hành vi trái pháp luật xảy ra dẫn đến phát sinh việc bồi thường nhà nước...
Hiện nay những quy định về việc bồi thường khi người THCV gây thiệt hại ngày càng được hoàn thiện, bù đắp được một phần nào tổn thất của người bị thiệt hại. Cạnh đó, nó nâng cao hơn trách nhiệm của người THCV khi thực thi công việc được giao. Đây là một sự sòng phẳng cần phải có. Tuy nhiên, nếu gây ra thiệt hại, phải bồi thường là điều rất đáng tiếc. Càng đáng tiếc hơn nếu người THCV thiếu rèn luyện kỹ năng, rèn giũa phẩm chất người cán bộ để rồi gây ra họa. Chính vì vậy tôi cho rằng quy định là cần phải đặt ra để chế tài các vi phạm nhưng hơn hết, người THCV phải ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ vì dân, vì nước mà phục vụ nhằm hạn chế thấp nhất sai sót.