TAND Cấp cao tại TP.HCM vừa xử phúc thẩm vụ tranh chấp quyền sử dụng đất và huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) giữa nguyên đơn là ông NTH (mất tháng 8-2019) cùng các người thừa kế và bị đơn là bà HTKC (sinh năm 1964) và chồng.
Ông H khởi kiện yêu cầu tòa án buộc bị đơn trả lại phần đất 7.568m2 canh tác trồng lúa theo GCNQSDĐ do UBND huyện Châu Phú cấp ngày 27-7-2015. Nguyên đơn cho là nguồn gốc đất là của cha mẹ để lại cho mình. Tuy nhiên, khi đi kê khai thì người khác đi dùm cho mình và cả bị đơn.
Phần đất trước đây có ba cái mả của ông bà nội và cha được xây từ năm 1945 dạng vòng thành diện tích khoảng 300-500m2 nhưng khi cấp giấy không thể hiện phần mồ mả. Nay ông yêu cầu bị đơn trả lại phần đất 7.568 m2 trồng lúa bao gồm mồ mả trên đất.
Ngược lại, bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông H và phản tố yêu cầu toà hủy GCNQSDĐ của nguyên đơn.
Xử sơ thẩm, TAND tỉnh không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn mà chấp nhận việc phản tố của bên bị.
Sau đó, ông H kháng cáo, Viện trưởng VKSND tỉnh An Giang kháng nghị.
HĐXX phúc thẩm xét năm 1994, ông H được cấp GCNQSDĐ diện tích 5.737m2, đến năm 2015 đổi giấy thì diện tích là 7.568m2. Phần diện tích đất tăng lên là do san lấp ao, hầm và bà C cũng không có tranh chấp đối với phần diện tích tăng thêm này.
Năm 1992, mẹ ông H kê khai và nhờ người làm thủ tục xin cấp GCNQSDĐ cho ông H, bà C. Do đó, xác định khi còn sống mẹ đã phân chia đất cho các con, ông H được phần đất nào, bà C được phần nào. Bà C cho rằng tại thời điểm năm 1992, mẹ chỉ nhờ ông H đứng tên giùm nhưng không có chứng cứ chứng minh và không được ông H thừa nhận.
Tại các biên bản hòa giải tại Phòng TN&MT huyện năm 2016, tại TAND tỉnh An Giang và phiên sơ thẩm, bà C đều thừa nhận sau khi ông H được cấp GCNQSDĐ, bà biết nhưng không có tranh chấp hay khiếu nại gì.
Mặc dù đất đứng tên ông H nhưng bà vẫn giữ giấy canh tác, đóng thuế đầy đủ. Hiện tại, GCNQSDĐ của ông H, bà C được cấp năm 1994 bà đã giao cho người cậu thứ chín quản lý.
Dù ông H nhiều lần yêu cầu nhưng bà và người cậu vẫn không đồng ý trả giấy. Vì thế năm 2015 ông H đã báo mất và xin cấp lại quyền sử dụng đất mới…
Ngoài ra, năm 2016 khi giải quyết khiếu nại của bà C đối với việc ông H được cấp GCNQSDĐ, UBND huyện có công văn xác định hồ sơ kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H theo đúng quy định và Luật đất đai.
Từ những phân tích trên, có cơ sở xác định tuy vợ chồng ông H không trực tiếp canh tác liên tục trên đất thời gian dài nhưng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy GCNQSDĐ. Vợ chồng ông khởi kiện yêu cầu bà C cùng chồng trả lại đất là có căn cứ và yêu cầu phản tố về việc hủy GCNQSDĐ là không có cơ sở chấp nhận.
HĐXX đã chấp nhận kháng cáo và kháng nghị, sửa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi trả đất và không chấp nhận việc phản tố yêu cầu huỷ GCNQSDĐ.