Luật sư Nguyễn Hữu Thế Trạch (Đoàn Luật sư TP.HCM) vừa chuyển đơn kêu oan và tố cáo của Phan Văn Anh Vũ tới Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng, chánh án TAND Tối cao, viện trưởng VKSND Tối cao… cùng nhiều cơ quan, cá nhân.
Lá đơn 30 trang được đánh máy từ 64 trang do Vũ viết tay trong trại giam T16, Bộ Công an.
Phan Văn Anh Vũ trong một phiên tòa. Ảnh: TP
Trong đơn, Vũ cho rằng tòa án các cấp quy kết Vũ phạm tội theo Điều 219 BLHS (tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí) và Điều 229 BLHS (tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai) dù không có chứng cứ vật chất chứng minh có đồng phạm giữa Vũ và các bị cáo khác trong vụ án là “không có căn cứ thuyết phục”.
Đáng chú ý, Vũ cho rằng chủ thể của tội phạm quy định tại hai điều luật nói trên phải là người có chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước, phải mang quyền lực nhà nước. “Tôi chỉ là người đại diện theo pháp luật của các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân, đồng thời cũng là một công dân bình thường” - Vũ nêu và cho rằng giả sử có phạm tội thì chỉ với vai trò “đồng phạm giúp sức”.
Vũ cũng khẳng định chủ trương bán nhà, đất công sản trong thời gian 2006-2014 không phải là chính sách, chủ trương mới có trong giai đoạn này và mục đích áp dụng cũng không phải chỉ để bán nhà công sản cho Vũ mua.
“UBND TP Đà Nẵng đã bán trên 3.500 nhà, đất công sản từ năm 2002 đến 2016 qua nhiều thời kỳ lãnh đạo các khóa trước. Các chủ tịch TP như ông Huỳnh Năm, ông Hoàng Tuấn Anh, ông Trần Văn Minh, ông Văn Hữu Chiến, ông Huỳnh Đức Thơ đã bán rất nhiều cho cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức có nhu cầu sử dụng…” - Vũ dẫn chứng.
Vũ cũng nêu câu hỏi: Tại sao hàng trăm, hàng ngàn cá nhân, tổ chức cũng được hưởng chính sách, chủ trương giảm 10% trên tổng số tiền phải nộp khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong vòng 30 ngày lại không bị cơ quan tiến hành tố tụng xử lý hình sự?
Vũ cũng cho rằng cơ quan tiến hành tố tụng sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật về cách tính thiệt hại trong vụ án, vi phạm “rất nghiêm trọng” trình tự, thủ tục định giá tài sản.
Ngoài ra, để bảo đảm thi hành án, tòa đã tuyên duy trì lệnh kê biên đối với 23 tài sản là nhà, đất thuộc quyền sở hữu chung của Vũ và vợ, cùng năm tài sản là nhà, đất thuộc quyền sở hữu của các công ty mà Vũ tham gia góp vốn.
Vũ cho rằng nếu mình thật sự có tội, cơ quan tố tụng cũng chỉ được kê biên đối với phần tài sản thuộc sở hữu riêng của Vũ chứ không phải toàn bộ tài sản đứng tên chung của hai vợ chồng.
Đối với các tài sản thuộc quyền sở hữu của các công ty mà Vũ tham gia góp vốn, cần phải tách biệt giữa cá nhân và pháp nhân. Bản thân các công ty không phải là pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong vụ án này…
Vũ cho rằng giả sử việc truy tố, xét xử các bị cáo trong vụ án này là đúng người, đúng tội thì cơ quan tiến hành tố tụng đã “bỏ lọt tội phạm, bỏ lọt người phạm tội”.
Cuối đơn, Vũ đề nghị cơ quan có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng hủy hai bản án sơ và phúc thẩm của TAND TP Hà Nội và TAND Cấp cao tại Hà Nội để điều tra, xét xử lại và “minh oan, trả tự do” cho Vũ.