“Quyền im lặng” theo quy định tại dự thảo BLTTHS (sửa đổi) là quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.
Quyền tự nhiên của con người
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga đồng tình với quy định này. Theo bà Nga, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội xuất phát từ quyền tự nhiên của con người - quyền tự bảo vệ. Một người là thủ phạm nhưng có thể có hàng chục người bị tình nghi và bị tình nghi chưa phải là có tội. Luật cần đảm bảo quyền này cho những người bị tình nghi khi bản thân họ tự thấy chưa đủ điều kiện về nhiều mặt như kiến thức pháp luật, về thể chất, tinh thần; họ cần thời gian để bình tĩnh suy nghĩ cân nhắc, cần có người trợ giúp pháp lý để tránh tình trạng tự đưa mình vào tình thế bất lợi, tự buộc tội chính mình.
Dẫn lại trường hợp anh Hoàng Văn Ngài tự sát năm 2013 tại Công an huyện Gia Nghĩa (Đắk Nông) sau hai ngày bị triệu tập lên làm việc làm ví dụ, bà Nga cho biết thực tế nhiều người lần đầu bị công an triệu tập đã mất bình tĩnh, thậm chí hoảng loạn, nhất là người ít hiểu biết pháp luật, vị thành niên…
“Quyền tự bảo vệ đó thực chất là một phần quan trọng của quyền bào chữa. Đây là một phương thức tự bảo vệ đơn sơ nhất nhưng khả thi nhất cho người dân dù ở trình độ nhận thức pháp luật thấp nhất trước sự đối diện với cán bộ điều tra được đào tạo bài bản về thủ pháp điều tra, dày dạn nghiệp vụ thẩm vấn” - bà Nga nhấn mạnh.
Theo bà Nga, thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội giúp giảm tối đa oan, sai. Ảnh minh họa:Thúy An
“Làm oan là nhân đôi số lần sai”
Theo bà Nga, thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội còn giúp giảm tối đa oan, sai.
Bà Nga phân tích: Nếu bỏ lọt tội phạm chỉ sai một lần thì làm oan là đã nhân đôi số lần sai vì đã bao hàm cả bỏ lọt. Việc dùng mọi biện pháp (kể cả vũ lực) buộc nghi can phải khai nhận tội mà mình không thực hiện, sau đó hợp thức hóa, ngụy tạo chứng cứ khác cho phù hợp với diễn biến lời nhận tội, rồi lấy đó làm chứng cứ để buộc tội trước tòa là nguyên nhân gốc rễ của những vụ án oan chấn động dư luận vừa qua. Chẳng hạn vụ kết tội Huỳnh Văn Nén cùng năm người khác trong gia đình giết bà Dương Thị Mỹ (Bình Thuận), vụ Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang), vụ Trần Văn Đỡ (Sóc Trăng).
Cũng theo bà Nga, việc phụ thuộc vào lời khai nhận tội của nghi can và suy đoán có tội đã khá phổ biến. Thực tế nhiều trường hợp đã biến từ “quyền trình bày lời khai” của nghi can thành nghĩa vụ phải khai báo và xảy ra mớm cung, bức cung, dùng nhục hình, nghi can không trình bày thì bị coi là “thiếu thành khẩn”, “không hợp tác với cơ quan tố tụng”. Nghi can tự bào chữa thì bị coi là “quanh co, chối tội hòng trốn tránh trách nhiệm”. Tất cả tình tiết này đều bị tòa dùng làm căn cứ để quyết định mức án nặng hơn…
“Việc lãnh đạo liên ngành tư pháp trung ương kiên trì bảo vệ bản án kết tội Hồ Duy Hải trên cơ sở chủ yếu căn cứ vào lời khai nhận tội của Hải mà bỏ qua hàng loạt vi phạm rất nghiêm trọng về nội dung và tố tụng, theo tôi cũng là một minh chứng rõ ràng của xu hướng suy đoán có tội” - bà Nga nói thêm.
Ý kiến của bà Nga sau đó nhận được sự đồng tình của rất nhiều đại biểu khác.
Bó tay cơ quan điều tra?
Tuy nhiên, cũng có một số ít đại biểu không ủng hộ quy định như dự thảo.
Ủy viên Thường trực Ủy ban Tư pháp Đỗ Văn Đương nói: “Không thể coi trọng chống oan mà phải chú ý đến yêu cầu chống tội phạm giữ nghiêm trật tự kỷ cương. Nếu chúng ta đặt ra các quy định không khả thi, bó tay cơ quan điều tra mà lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội sẽ bị xâm phạm, tội phạm lộng hành thì trách nhiệm sẽ thuộc về ai?”.
Theo ông Đương: “Quy định hiện hành đã rất tiến bộ”. Trường hợp bị can, bị cáo khai ra hành vi phạm tội, đó là cơ hội tự bào chữa và họ được hưởng khoan hồng theo chính sách nhân đạo. “Tại sao lại khuyên họ im lặng để xảy ra hậu quả? Có phải thực sự là tiến bộ hay không? Trong điều kiện nước ta hiện nay chỉ có khoảng 20% vụ án hình sự có luật sư tham gia, luật sư tập trung chủ yếu ở thành phố lớn thì thử hỏi có quy định được im lặng cho đến khi có luật sư?” - ông Đương đặt câu hỏi.
Cùng quan điểm, Phó Giám đốc Công an tỉnh Quảng Nam Phạm Trường Dân cũng đề nghị cân nhắc giữ nguyên quyền của người bị bắt, bị can, bị cáo như quy định hiện hành, không quy định “quyền im lặng” thành quyền độc lập vì phá vỡ các nguyên tắc hiện hành, dễ bị lợi dụng, gây khó khăn, phức tạp cho công tác phòng, chống tội phạm.
Ghi âm, ghi hình để hạn chế bức cung, nhục hình Nhiều đại biểu đồng tình với quy định bắt buộc ghi âm, ghi hình hoạt động hỏi cung. Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam Trương Trọng Nghĩa nhận xét việc này không có nghĩa là loại bỏ được nạn bức cung, nhục hình bởi bức cung, nhục hình rất đa dạng và tinh vi. Tuy nhiên, nếu làm được sẽ hạn chế được tệ nạn này. “Quy định này đảm bảo minh bạch quá trình hỏi cung, ghi nhận khách quan hoạt động nghiệp vụ của điều tra viên, kiểm sát viên, luật sư; là bằng chứng để bảo vệ điều tra viên nếu bị nghi can vu cáo bức cung, nhục hình và bảo vệ nghi can nếu việc bức cung, nhục hình là có thật, bảo vệ luật sư nếu bị nghi ngờ là xui cho bị can chối tội” - bà Lê Thị Nga nói. Theo bà Nga, ý kiến chính thức của Bộ Công an, VKSND Tối cao, TAND Tối cao là thống nhất, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí với đề xuất này, “nếu có phản biện rằng không đủ kinh phí thì cũng cần đưa ra con số cụ thể bao nhiêu để Quốc hội biết và phân bổ ngân sách cho hoạt động điều tra”. |