Vén màn bí ẩn ‘nữ nhi quốc’ cuối cùng của Trung Quốc

Một người đàn ông trẻ mặc chiếc áo sơ mi trắng, quần đen, đeo thắt lưng đỏ, lồm cồm trườn lên theo mé một ngôi nhà gỗ và vội trượt chân vào trong cửa sổ có chấn song ở tầng hai.

"Đây là cách đàn ông Mosuo leo vào “hoa phòng” của phụ nữ", Ke Mu ló đầu ra ngoài cửa sổ "hoa phòng", hay phòng ngủ riêng, vẫy chiếc mũ của mình và giải thích với du khách.

 Một du khách chèo thuyền dọc theo mé sông Lô Cô. (Ảnh: New York Times)

Đó là vào buổi sáng ở Luoshui, ngôi làng nằm ven hồ Lô Cô, phía tây nam Trung Quốc. Trên con đường nhỏ hẹp bụi mịt mù vì công trường xây dựng khách sạn gần đó, một nhóm công nhân người trẻ đang sửa soạn chuẩn bị cho ngày làm việc mới tại Bảo tàng Văn hóa dân gian Mosuo.

 Nhiệm vụ của họ là giới thiệu về những truyền thống của người Mosuo, nhóm dân tộc thiểu số được cho là xã hội mẫu hệ cuối cùng còn tồn tại ở Trung Quốc, nơi trẻ em theo họ mẹ và con gái thường được coi trọng hơn con trai. Chính niềm say mê, thích thú đối với truyền thống độc đáo như vậy của Mosuo dẫn đến sự bùng nổ ngành công nghiệp du lịch tại khu vực này, từng được xem là nơi hẻo lánh bậc nhất Trung Quốc.

Bị lôi cuốn bởi vẻ đẹp tự nhiên và cảm giác trải nghiệm một nền văn hóa mới lạ, hàng trăm nghìn du khách, phần lớn là người Trung Quốc đang đổ về hồ Lô Cô, vùng đất nép mình trên một cao nguyên ở vùng núi giữa tỉnh Vân Nam và Tứ Xuyên.

Lượng khách du lịch kéo đến đây dự kiến còn tăng lên khi một sân bay địa phương mới được mở cửa vào tháng này và sau đó có cả đường cao tốc nối hồ Lô Cô với Thành Đô, thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên.

Mọi người trò chuyện ngay trước cổng tu viện Zhamei, tu viện quan trọng nhất của cộng đồng Mosuo, ở Yongning, tỉnh Vân Nam. (Ảnh: New York Times)

Lượng du khách kéo đến ngày càng đông, vì thế rất nhiều khách sạn mọc lên ven mép nước xanh nguyên sơ của vùng hồ. Đến đây du khách có thể xem người dân thực hiện các vũ điệu truyền thống trong trang phục đầy sắc màu, hay chèo thuyền trên hồ, nghe những thanh niên trẻ người Mosuo tán tỉnh họ bằng những khúc tình ca tiếng Naru, ngôn ngữ của Mosuo.

Khắp nơi xung quanh làng Luoshui là những tấm biển ghi "Chào mừng đến với nữ nhi quốc".

Tuy nhiên, khác hẳn với sự sống động, quyến rũ ở vẻ bề ngoài, cộng đồng Mosuo đang đối mặc với một cuộc khủng hoảng. Bởi khi sự giao lưu, tiếp xúc với thế giới bên ngoài càng tăng lên, người dân nơi đây và các chuyên gia nước ngoài lo sợ rằng những phong tục truyền thống độc đáo của cộng đồng có nguy cơ bị mai một.

Chuyên gia cho hay dân số Mosuo ở vùng hồ Lô Cô ước chừng khoảng 40.000 người và đang có xu hướng giảm dần khi ngày càng nhiều thanh niên ở đây tìm bạn đời bên ngoài hoặc chuyển đến làm việc ở các thành phố lớn. Ngoài ra, với việc không có chữ viết, văn hóa Mosuo rất dễ biến mất.

Thậm chí ngay cả bên trong cộng đồng, người trẻ Mosuo đang ngày càng “chuộng” kiểu hôn nhân thông thường hơn là làm theo tập quán tiesese lâu đời của vùng. Trong tiếng Quan thoại, tiesese được biết đến với từ zouhun hay di hôn, là một tập quán thay thế cho hôn nhân. Tập quán này được hiểu là đàn ông đến thăm phụ nữ vào ban tối để thỏa mãn nhu cần sinh sản và nhu cầu tình dục. Theo truyền thống, một phụ nữ Mosuo có thể có nhiều mối quan hệ tiesese trong đời, đôi khi cùng một lúc. Tuy nhiên, điều này đã thay đổi do sự du nhập các giá trị bên ngoài như hôn nhân một vợ một chồng hay bạn đời.

“Nếu một ngày nào đó tôi được kết hôn thì sẽ rất tuyệt vời”, Lu Ru, 34 tuổi, người đang trong một mối quan hệ tiesese nói. “Bạn có thể hình dung ra việc yêu một ai đó cuồng nhiệt như vậy không?”

Một nữ du khách chụp ảnh trong trang phục truyền thống của người Mosuo (Ảnh: New York Times)

Với tiesese, quan hệ tình dục hoàn toàn tách biệt khỏi quan hệ gia đình. Những người đàn ông và phụ nữ theo lẽ ​​sẽ dành trọn đời sống tại ngôi nhà mà họ sinh ra. Kết quả là các đối tác tình dục hiếm khi ở chung một nhà. Sự hòa hợp trong mỗi gia đình có giá trị tuyệt đối, được đặt lên trên tất cả, thậm chí hơn cả mối quan hệ vợ chồng.

Trong văn hóa Mosuo truyền thống, cuộc sống gia đình xây dựng xung quanh đơn vị xã hội cơ bản gọi là "gia đình lớn". Nơi đây, trẻ em được mẹ và gia đình bên mẹ nuôi dưỡng. Kể cả khi những đứa trẻ biết về cha đẻ của chúng thì anh em trai của người mẹ vẫn là người có trách nhiệm làm cha, giúp nuôi nấng đứa trẻ đó. Đàn ông phải ở lại nhà mẹ đẻ. Nhiều thế hệ sống một gia đình lớn cùng nhau.

Theo Chuan-Kang Shih, chuyên gia về người Mosuo kiêm giáo sư nhân chủng học tại ĐH Florida, hệ thống trên được củng cố bằng một niềm tin cơ bản rằng phụ nữ có nhiều khả năng hơn nam giới, về cả tinh thần và thể chất.

Người Mosuo cũng tin rằng tất cả mọi thứ con người đề cao trên thế giới đều đến từ phụ nữ, không phải đàn ông. Tất cả các nam thần đều là thứ yếu bên nữ thần bảo trợ họ.

"Hệ thống này nếu xét tới tổng thể cách thức mà các gia tộc cân bằng giữa ham muốn tình dục, sự ổn định, sự thuần phục và nhu cầu trẻ em thì rất hợp lý”, Judith Stacey, giáo sư xã hội học tại ĐH New York, nhận định.

"Nhưng nó lại thiếu tính linh động. Đó là lý do tại sao hiện nay với sự bất bình đẳng cũng như những thay đổi về kinh tế và địa lý, nó không thể tồn tại như một hệ thống được nữa", bà Stacey nói.

Phụ nữ Mosuo đang nhảy vũ điệu truyền thống của người Mosuo trong trang phục đầy sắc màu. (Ảnh: New York Times)

Theo một số tài liệu lịch sử, cuộc sống ở cộng đồng Mosuo đã tương đối ổn định trong hàng trăm năm. Bắt đầu từ thời nhà Nguyên cai trị Trung Quốc, từ năm 1271 đến 1368, người Mosuo được quản lý bởi một hệ thống thủ lĩnh bản địa cùng một cơ chế phân cấp xã hội cứng nhắc. Dù sống cùng với nhiều dân tộc có tập tục hôn nhân thông thường khác nhưng hầu như tất cả người Mosuo vẫn duy trì tập quán tiesese.

Tuy nhiên, đến năm 1956, tập quán tiesese bắt đầu có những thay đổi và dần được xem là “tập quán hôn nhân lạc hậu”. Đỉnh điểm là vào năm 1975, khi nhà nước Trung Quốc phát động chiến dịch "một vợ một chồng", yêu cầu các đối tác tình dục Mosuo kết hôn và sống chung dưới một mái nhà.

Từ khi Cách mạng Văn hóa kết thúc vào năm 1976, trong cuộc sống thường nhật của người Mosuo dường như không còn sự hiện diện của nhà nước. Nhưng giới chuyên gia đánh giá rằng sự tăng cường giám sát trước đó đã để lại thái độ mâu thuẫn về tiesese cho các thành viên trong cộng đồng Mosuo.

"Vào cuối thập niên 1980, người Mosuo rất dè chừng hoặc thậm chí phủ nhận sự tồn tại của tập quán di hôn", giáo sư Shih nói. "Đến giữa những năm 1990, khi ngành du lịch manh nha tại khu vực hồ Lô Cô, họ lại nhìn nhận nó như một “diệu kế” để thu hút du khách và họ bắt đầu tự hào về nó".

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm