Tại phiên họp toàn thể lần thứ 11, đánh giá về báo cáo của chánh án TAND Tối cao, nhóm nghiên cứu của Ủy ban Tư pháp nhận định: “... Trong năm 2018, trong một số vụ án dư luận xã hội còn chưa đồng tình về việc áp dụng hình phạt đối với bị cáo”. Báo cáo dẫn chứng hai vụ cụ thể, trong đó có vụ Phan Tiến Dũng và đồng phạm bị TAND huyện Đắk Hà (Kon Tum) xử sơ thẩm kết án về tội trộm cắp tài sản vì vào rừng đặc dụng Đăk Uy cưa trộm cây gỗ trắc chết khô mà Pháp Luật TP.HCM từng phản ánh.
Trong vụ án này, TAND tỉnh Kon Tum xử phúc thẩm (ngày 1-6-2018) tuyên các bị cáo không phạm tội. Sau đó, lãnh đạo TAND Tối cao kháng nghị giám đốc thẩm, đề nghị Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại Đà Nẵng hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm...
TAND Tối cao: Xử tội trộm cắp là đúng
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga đã đề nghị lãnh đạo TAND Tối cao giải trình về vụ án trên.
Phó Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Văn Du giải trình: Trong vụ án, tòa sơ thẩm xử các bị cáo về tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS 1999). Tòa phúc thẩm nhận định rừng đặc dụng Đăk Uy không phải “rừng trồng, rừng khoanh nuôi tái sinh, đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao cho tổ chức, tập thể, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp mà người được giao đã bỏ vốn đầu tư trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ” nên hành vi của các bị cáo không thể xử lý theo quy định tại Điều 138 BLHS 1999. Hành vi của các bị cáo cũng chưa cấu thành tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (Điều 175 BLHS 1999) vì định lượng chưa đủ.
“Cấp phúc thẩm tuyên các bị cáo không phạm tội nhưng nhận định như vậy, chúng tôi thấy không đúng. Hồ sơ vụ án phản ánh rừng Đăk Uy là rừng đang do Nhà nước quản lý và Ban quản lý rừng đặc dụng Đăk Uy đang quản lý trực tiếp” - ông Du nhấn mạnh.
Cũng theo ông Du, khi định giá lại, khúc gỗ trắc trong vụ án được định giá hơn 19 triệu đồng. Trong khi đó, Thông tư liên tịch 19/2007 (hướng dẫn áp dụng một số điều của BLHS về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản) có quy định: “Trường hợp chặt phá các loại thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm thuộc nhóm IA, IIA không xác định thiệt hại bằng diện tích theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 3.4 mục 3 này (do chặt phá từng cây ở nhiều vị trí khác nhau trong cùng một tiểu khu hoặc nhiều tiểu khu) nhưng giá trị thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm bị chặt phá từ trên 30 triệu đồng đến 60 triệu đồng đối với nhóm IA hoặc từ trên 50 triệu đến 100 triệu đồng đối với nhóm IIA thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 189 BLHS (tội hủy hoại rừng - NV)”. Thông tư 19 cũng quy định: “Nếu người khai thác cây rừng trái phép mà không phải là chủ rừng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các điều luật tương ứng quy định tại Chương XIV Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS”.
Từ đó, ông Du khẳng định tòa sơ thẩm xử tội trộm cắp tài sản là đúng pháp luật bởi người khai thác cây rừng trái phép không phải là chủ rừng. “Anh đã có hành vi vào rừng chiếm đoạt cây gỗ trắc, lén lút chiếm đoạt, che giấu đối với chủ tài sản để chiếm đoạt” - ông Du nói. Theo ông Du, đây là lý do chánh án TAND Tối cao đã kháng nghị vụ án, đề nghị TAND Cấp cao tại Đà Nẵng hủy án phúc thẩm của TAND tỉnh Kon Tum và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ông Du cũng cho rằng Công văn 157 (năm 2011) gửi UBND tỉnh Kon Tum do Phó Chánh án Thường trực TAND Tối cao Đặng Quang Phương ký “không có gì mâu thuẫn” với quyết định kháng nghị của chánh án TAND Tối cao đối với vụ án này. “Bởi lẽ công văn của anh Đặng Quang Phương chỉ nêu một đoạn: Nếu gỗ trắc bị chặt trộm tại rừng đặc dụng Đăk Uy có giá trị từ trên 50 triệu đến 100 triệu đồng thì người vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 189 BLHS” - ông Du nói.
Năm bị cáo trong vụ cưa gỗ khô bị tội trộm. Ảnh: N.NGA
“TAND Tối cao viện dẫn quy định ngắt khúc”
“Giải trình của TAND Tối cao không thuyết phục bởi viện dẫn ngắt khúc, không đầy đủ nguyên văn quy định trong Thông tư 19/2007, dẫn đến hiểu sai, trong khi quy định tại thông tư này rất rõ, chỉ có một cách hiểu” - luật sư Lê Văn Hoan (Đoàn Luật sư TP.HCM) nhận xét.
Cụ thể, Phó Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Văn Du viện dẫn đoạn quy định tại Thông tư 19: “Nếu người khai thác cây rừng trái phép mà không phải là chủ rừng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các điều luật tương ứng quy định tại Chương XIV các tội xâm phạm sở hữu của BLHS” để cho rằng tòa sơ thẩm xử tội trộm cắp tài sản là đúng. Trong khi theo quy định trong Thông tư 19/2007 mà ông Du viện dẫn nói trên, chỉ áp dụng đối với rừng trồng, rừng khoanh nuôi tái sinh.
Nguyên văn hướng dẫn về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (điều 175 BLHS) như sau:
"Trường hợp khai thác trái phép rừng trồng, rừng khoanh nuôi tái sinh đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao cho tổ chức, tập thể, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp mà người được giao đã bỏ vốn đầu tư trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ... thì bị xử lý như sau:
a) Nếu chủ rừng khai thác cây rừng trái phép thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 175 BLHS.
b) Nếu người khai thác cây rừng trái phép mà không phải là chủ rừng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các điều luật tương ứng quy định tại Chương XIV Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS”.
Ở đây, rừng mà năm bị cáo khai thác trái phép là rừng tự nhiên, rừng đặc dụng chứ không phải rừng trồng, rừng khoanh nuôi tái sinh… Do đó việc tòa sơ thẩm kết án năm bị cáo về tội trộm cắp tài sản là hoàn toàn sai quy định được trích dẫn nguyên văn trong Thông tư 19/2007. Rõ ràng Phó Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Văn Du đã viện dẫn quy định một cách không đầy đủ, chỉ ngắt khúc điểm b trong đoạn hướng dẫn của Thông tư 19-2017 dẫn đến hiểu sai quy định.
Hướng dẫn trong Thông tư 19/2007 về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng cũng giải thích khái niệm “khai thác trái phép cây rừng” (dấu hiệu định tội) như sau: “Khai thác trái phép cây rừng là một trong các hành vi sau đây:
a) Khai thác cây rừng ở rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép trong trường hợp pháp luật quy định việc khai thác đó chỉ được thực hiện khi đã được cấp giấy phép và giấy phép còn trong thời hạn…”.
Như vậy, hành vi cưa cây gỗ trắc chết khô trong rừng đặc dụng Đăk Uy của năm bị cáo chính là hành vi khai thác trái phép cây rừng và nếu có xử lý hình sự thì phải xem xét về tội danh vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
“Mâu thuẫn với công văn năm 2011 của Tòa Tối cao” Theo luật sư Lê Văn Hoan, việc Phó Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Văn Du cho rằng Công văn 157 năm 2011 gửi UBND tỉnh Kon Tum do Phó Chánh án Thường trực TAND Tối cao Đặng Quang Phương ký không có gì mâu thuẫn với quyết định kháng nghị của chánh án TAND Tối cao là bất hợp lý. Cụ thể, theo Công văn 157 gửi UBND tỉnh Kon Tum, hành vi cưa trộm cây trắc trong rừng đặc dụng Đăk Uy nếu đủ định lượng giá trị tang vật từ 50 triệu đồng thì bị xử lý về tội hủy hoại rừng theo Điều 189 BLHS 1999. “Công văn 157 hoàn toàn không đề cập gì đến tội trộm cắp tài sản, trong khi theo Điều 138 BLHS 1999, giá trị tài sản bị xâm hại chỉ cần từ 2 triệu đồng trở lên là đủ để xử lý về tội này. Rõ ràng đường lối chỉ đạo xét xử của TAND Tối cao thời đó đã định hướng và hoàn toàn không có việc xử lý hành vi cưa trộm cây trắc trong rừng đặc dụng Đăk Uy theo tội danh trộm cắp tài sản. Mặt khác, chả lẽ cưa trộm cây trắc trong rừng đặc dụng có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên thì xử về tội hủy hoại rừng, còn giá trị dưới 50 triệu đồng như trường hợp của năm bị cáo thì xử về tội trộm cắp tài sản? Pháp luật sao lại áp dụng bất nhất như vậy được” - luật sư Hoan nói. Ngoài ra, theo luật sư Hoan, nếu chấp nhận quan điểm của TAND Tối cao là xử lý hành vi cưa gỗ trắc trong rừng đặc dụng về tội trộm cắp tài sản thì một loạt hệ lụy sẽ phải đặt ra: Thứ nhất, việc phân định rừng tự nhiên và rừng trồng, rừng khoanh nuôi tái sinh trong Thông tư 19/2007 là vô nghĩa? Thứ hai, từ trước đến nay các tòa xét xử hành vi cưa trộm gỗ (nhóm IIA) trong rừng tự nhiên về tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng theo Điều 175 BLHS 1999 là sai? Vậy có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm để xử lại tất cả vụ án này? Thứ ba, những hành vi tương tự vụ án này trên cả nước đã bị xử phạt hành chính đều phải xem xét lại theo hướng xử lý hình sự về tội trộm cắp tài sản? Thứ tư, các tội danh vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng (nay là Điều 232 BLHS 2015), hủy hoại rừng (nay là Điều 243 BLHS 2015) là thừa, bị vô hiệu hóa vì chỉ cần giá trị tang vật từ 2 triệu đồng trở lên là xử hình sự người vi phạm về tội trộm cắp tài sản? |