Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao vừa xử giám đốc thẩm, hủy cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm vụ hủy kết quả bán đấu giá đòi bồi thường thiệt hại, giao hồ sơ để TAND tỉnh Tây Ninh xử sơ thẩm lại. Nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Vĩnh (huyện Hòa Thành, Tây Ninh), bị đơn là chi nhánh một ngân hàng (gọi tắt là NH).
Năm 1996, ông Vĩnh thế chấp 7.700 m2 đất để vay NH 100 triệu đồng nên NH khởi kiện đòi. TAND huyện Hòa Thành ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên, theo đó ông Vĩnh sẽ trả cả gốc lẫn lãi. Do ông Vĩnh không tự nguyện thi hành án (THA) nên tháng 3-1998 đội THA dân sự huyện bán đấu giá mảnh đất. Sau hai lần bán đấu giá thành nhưng người trúng đấu giá không mua, đội THA giao lại đất cho NH bán đấu giá. Tháng 6-2002, NH bán đấu giá thành công với giá 385 triệu đồng. Sau đó NH đo đạc, bàn giao cho người trúng đấu giá 7.700 m2, trả cho ông Vĩnh 943 m2 đ ất còn lại.
Ông Vĩnh khởi kiện, yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá và NH phải bồi thường thiệt hại. Năm 2006, TAND huyện Hòa Thành và TAND tỉnh Tây Ninh đều xử bác yêu cầu của ông. Năm 2011, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã hủy cả hai bản án này theo thủ tục giám đốc thẩm. Năm 2013, TAND tỉnh Tây Ninh xử sơ thẩm lần hai cũng tuyên bác yêu cầu của ông Vĩnh và Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao TP.HCM (nay là TAND Cấp cao tại TP.HCM) y án sơ thẩm. Sau đó chánh án TAND Tối cao đã kháng nghị án phúc thẩm vì đã công nhận kết quả bán đấu giá sai.
Quyết định giám đốc thẩm cho rằng ông Vĩnh thế chấp 7.700 m2 nhưng theo đo đạc thực tế của THA huyện vào năm 1999 thì là 8.767 m2. Lẽ ra THA huyện chỉ kê biên bán đấu giá diện tích đất tương ứng với nghĩa vụ trả nợ của ông Vĩnh, còn lại thì phải trả ông. Nhưng THA huyện lại bàn giao toàn bộ đất của ông cho NH là sai.
Cạnh đó, sau khi nhận đất NH không định giá diện tích tương ứng với nghĩa vụ trả nợ của ông Vĩnh mà đấu giá toàn bộ 7.700 m2 đất là vượt quá so với nghĩa vụ trả nợ. Trước khi bán đất, NH cũng không đo đạc để xác định chính xác kích thước phần đất bán, khi bán xong mới đo đạc giao cho người mua 15,7 m mặt đường, chỉ trả cho ông Vĩnh 1 m mặt đường để đi vào khu đất 943 m2 bên trong là quá hẹp, không bảo đảm quyền lợi cho ông.
Ngoài ra, NH bán đấu giá đất vào tháng 6-2002 nhưng không định giá mà căn cứ vào biên bản định giá năm 1998 của THA huyện để xác định giá khởi điểm 7.700 m2 đất hơn 300 triệu đồng là sai. Vì theo điểm 4 phần II Thông tư liên tịch 02/2002 giữa NH Nhà nước và Bộ Tư pháp (về bán tài sản bảo đảm) thì phải xác định giá khởi điểm theo giá thị trường tại thời điểm bán.
Cuối cùng, cấp giám đốc thẩm cho rằng đối chiếu với các quy định thì giao dịch bán đấu giá giữa NH với người mua là vô hiệu. Nhưng người mua là ngay tình, hiện đã xây nhà và sử dụng đất ổn định. Do đó, khi xử lại tòa cần áp dụng Điều 147 BLDS 1995 để công nhận việc bán đấu giá này. Nhưng tòa phải xác định lại giá đất theo giá thị trường tại thời điểm bán và xác định lỗi của NH vì không định giá tài sản. Từ đó làm cơ sở buộc NH phải bồi thường thiệt hại cho ông Vĩnh về chênh lệch giá tại thời điểm bán đấu giá phần đất nêu trên và tiền lãi khoản tiền chênh lệch giá kể từ thời điểm bán đấu giá cho tới khi xử sơ thẩm lại.