Theo quy định thì cơ quan chức năng có phải báo với gia đình, thân nhân người bị bắt không và trong trường hợp nào thì được bắt người? Chúng tôi có thể yêu cầu hủy bỏ biện pháp bắt người trên được không?
Nguyễn Phúc Hạnh (Tân Phú, TP.HCM)
Luật sư ĐINH VĂN LƯƠNG, Đoàn Luật sư TP.HCM, trả lời: Theo Điều 79 (Bộ luật Tố tụng hình sự về các biện pháp và căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn) thì để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, cơ quan điều tra, VKS, tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của bộ luật này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Cạnh đó, Điều 85 của bộ luật cũng quy định thông báo về việc bắt người. Theo đó người ra lệnh bắt, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay.
Về việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn thì theo Điều 94 của bộ luật, chỉ khi vụ án bị đình chỉ thì mọi biện pháp ngăn chặn đã áp dụng đều phải được hủy bỏ. Ngoài ra, cơ quan điều tra, VKS, tòa án hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác. Đối với những biện pháp ngăn chặn do VKS phê chuẩn thì việc hủy bỏ hoặc thay thế phải do VKS quyết định.
NGUYỄN ĐỊNH ghi