Theo nguyên đơn Trần Văn Giang, cha mẹ ông kết hôn năm 1950, có hai con chung. Năm 1996, bà Thuyền về sống chung với cha của ông tại nhà B28 khu cư xá Tân Kỳ Tân Quý, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú.
Năm 2005, cha ông chết, không di chúc. Bà Thuyền kê khai di sản với chỉ mình bà là người thừa kế. Sau đó, bà đã bán nhà nhà cho người khác, và sang tên đổi chủ xong xuôi. Ông Giang đã yêu cầu tòa xác định mẹ và hai anh em ông là những đồng thừa kế căn nhà nêu trên.
Xử sơ thẩm hồi tháng 6-2013, TAND quận Tân Phú căn cứ vào biên bản xác minh tại phường và sơ yếu lý lịch Đảng viên của cha ông Giang (trong đó phần tên vợ hiện tại ghi là Nguyễn Kim Thuyền, tên vợ trước là mẹ ông Giang) để nhận định từ năm 1970, cha mẹ ông Giang không còn quan hệ vợ chồng nên mẹ ông Giang không có phần trong ngôi nhà. Mặc khác, theo điểm a khoản 3 Nghị quyết 35 của Quốc hội hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì đây là hôn nhân thực tế do bà Thuyền và cha ông Giang chung sống từ năm 1973. Từ đó, tòa công nhận những đồng thừa kế của cha ông Giang gồm bà Thuyền, ông Giang và em gái ông Giang. Ông Giang đã kháng cáo.
Tại tòa phúc thẩm, bà Thuyền cho rằng nhà là do bà và cha ông Giang cùng tạo lập. Chồng bà có di chúc để lại phần của ông cho bà. Bà xin bổ sung di chúc sau.
HĐXX phúc thẩm đã căn cứ vào sổ đăng ký hộ khẩu, hộ tịch và bản khai nhân khẩu thể hiện cha ông Giang còn có ba người con nữa nhưng TAND quận Tân Phú không xác minh, làm rõ họ đang ở đâu, còn sống hay đã chết để đưa vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Sai sót này là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên phải hủy án để TAND quận Tân Phú giải quyết lại theo thủ tục chung.
LỆ TRINH