Theo Luật BHXH, Nghị định 143/2018 có quy định về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với người lao động (NLĐ) nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Cụ thể, khoản 1 Điều 2 Nghị định 143/2018 quy định NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc khi có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp. Có hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ một năm trở lên với người sử dụng lao động tại Việt Nam.
NLĐ thuộc khoản 1 Điều 2 Nghị định 143 đóng BHXH sẽ được hưởng các chế độ như ốm đau; thai sản; bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí và tử tuất.
Như vậy, so với lao động là người Việt Nam thì lao động là người nước ngoài khi tham gia BHXH bắt buộc cũng được hưởng các quyền lợi giống nhau. Tuy nhiên, theo quy định hiện nay thì lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam sẽ không phải đóng và cũng không được hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN).
Mới đây, tại chương trình đối thoại tháng 5 với chủ đề “BHXH với doanh nghiệp, NLĐ” được tổ chức ở TP Thủ Đức, TP.HCM, đại diện công đoàn của một số doanh nghiệp tại Khu công nghệ cao TP.HCM đã có thắc mắc vì sao NLĐ nước ngoài làm việc tại Việt Nam lại không được đóng và hưởng chế độ BHTN. Trong khi đó, NLĐ nước ngoài trong quá trình làm việc cũng có thời gian nghỉ việc và phải tìm kiếm việc làm khác.
Giải quyết những thắc mắc trên của doanh nghiệp, ông Trần Dũng Hà, Phó Giám đốc BHXH TP.HCM, cho biết theo quy định hiện hành, NLĐ có đóng BHTN thì sẽ được hưởng các chế độ BHTN, không đóng thì không được hưởng. Những chế độ của BHTN không phải chỉ chi trả trợ cấp thất nghiệp hằng tháng cho NLĐ khi thất nghiệp mà còn tư vấn hỗ trợ học nghề; giới thiệu việc làm cho NLĐ.
Trên thực tế hiện nay, BHTN chỉ giải quyết và hỗ trợ các chế độ trên cho NLĐ là người Việt Nam.
Riêng đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, đa phần là những người có trình độ; thường chỉ làm việc với thời gian ngắn hạn. Do đó, lao động nước ngoài tại Việt Nam có nhu cầu hưởng các chế độ BHTN hay không, có phù hợp với thực tế không… cần phải nghiên cứu thêm.