Xử vụ SAGRI: Bị cáo Trần Trọng Tuấn kêu oan

Ngày 9-12, TAND TP.HCM tiếp tục phiên xử vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản gây thất thoát lãng phí, tham ô tài sản xảy ra tại Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn (SAGRI).
Bị truy tố về tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản gây thất thoát lãng phí, bị cáo Trần Trọng Tuấn (nguyên giám đốc Sở Xây dựng) không đồng ý với cáo buộc.
Trả lời VKS, bị cáo Tuấn khẳng định trong vụ chuyển nhượng Dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở tại phường Phước Long B, quận 9 đã làm đầy đủ trách nhiệm của mình.

Đại diện VKS cáo buộc bị cáo Trần Trọng Tuấn có sai phạm. Ảnh: H.YẾN

Hồ sơ thể hiện ngày 11-5-2017, ông Tuấn, Giám đốc Sở Xây dựng, Chủ tịch Hội đồng thẩm định của TP về chuyển nhượng dự án đã tiến hành họp, thẩm định hồ sơ chuyển nhượng dự án trên. Sau cuộc họp, các thành viên của Hội đồng thẩm định thống nhất cần xin ý kiến Chi cục Tài chính doanh nghiệp- Sở Tài chính.

Đến tháng 9-2017, Chi cục Tài chính doanh nghiệp TP có văn bản trả lời trích dẫn nguyên văn của Bộ Tài chính không có hướng dẫn hoặc có ý kiến gì thêm về việc áp dụng pháp luật cụ thể trong trường hợp chuyển nhượng dự án của SAGRI.
VKS cho rằng bị cáo Tuấn biết rõ các quy định của pháp luật về việc SAGRI xin chuyển nhượng dự án bất động sản. Tuy chưa đủ điều kiện và căn cứ pháp lý để chuyển nhượng, bị cáo vẫn ký tờ trình kèm theo dự thảo của Quyết định số 6077/QĐ-UBND, gửi UBND TP đề xuất chấp thuận cho chuyển nhượng dự án trên.
Trong khi bị cáo Tuấn cho biết căn cứ quy chế, việc họp hội đồng thẩm định phải lập biên bản. Nhưng cuộc họp này không lập biên bản. Có sự thiếu sót này là do sự phối hợp giữa phòng chuyên môn và văn phòng nên cuộc họp không lập biên bản. Về sau kiểm tra lại, ông mới biết không có biên bản cuộc họp.
Về dự án, bị cáo Tuấn cho rằng khi thẩm định hồ sơ SAGRI đã rất cẩn trọng. Vì đây là một doanh nghiệp nhà nước. Việc làm văn bản hỏi ý kiến Chi cục Tài chính Doanh nghiệp thuộc Sở Tài chính là thể hiện sự chặt chẽ của hội đồng.

Hai bị cáo Trần Trọng Tuấn và Trần Vĩnh Tuyến tại toà. Ảnh: H.YẾN

“Hồ sơ đủ điều kiện chuyển nhượng tuy nhiên đây là dự án liên quan đến việc quản lý vốn Nhà nước kinh doanh nên trước khi tham mưu cho UBND TP thì đề nghị Sở Tài chính có ý kiến để đảm bảo chặt chẽ không sai sót” - bị cáo Tuấn trình bày.

Việc làm công văn hỏi là thể hiện sự cẩn trọng trong việc quản lý chuyển nhượng vốn đầu tư doanh nghiệp Nhà nước ra ngoài doanh nghiệp. Nếu có vướng mắc trong điều kiện, thủ tục sẽ dừng hồ sơ.
Về quá trình thực hiện công vụ, bị cáo Tuấn nói vụ việc này giờ nói áp dụng Luật Kinh doanh bất động sản trước hay Luật Quản lý vốn tài sản Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp trước thì thực ra không có quy định nào. Nhưng với trách nhiệm của mình đã áp dụng đúng Luật Kinh doanh bất động sản. Và tờ trình không có điểm nào trái với Luật Quản lý vốn tài sản Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
Trước đó, hai luật sư của bị cáo Tuấn đã có đơn kiến nghị đề nghị HĐXX làm rõ cho thân chủ không thực hiện các hành vi vi phạm mà theo bản cáo trạng xác định là sai phạm chính của vụ án. Cụ thể 3 sai phạm chính nêu là SAGRI chưa có đề án tái cơ cấu, chưa trình phương án thoái vốn cho UBND TP; việc chuyển nhượng này phải đấu giá theo quy định pháp luật và chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính liên quan đến tăng diện tích đất ở biệt thự
Luật sư nêu không có chứng cứ để kết luận bị cáo Tuấn có các hành vi vi phạm như cáo buộc. Việc SAGRI nộp hồ sơ đề nghị chuyển nhượng toàn bộ dự án bất động sản này là đúng đắn, phù hợp quy định của pháp luật. Đồng thời, bảo đảm điều kiện pháp lý cho việc chuyển nhượng. Dự án này đủ điều kiện chuyển nhượng theo quy định của Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014. Việc tham mưu cho phép chuyển nhượng dự án không vi phạm quy định của pháp luật về điều kiện hoàn thành nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước.
SAGRI đã góp vốn đầu tư dự án bất động sản theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, không thành lập pháp nhân mới. Do đó, việc chuyển nhượng toàn bộ số vốn đã đầu tư này không phải thực hiện theo phương thức đấu giá công khai mà SAGRI phải thực hiện theo các nguyên tắc được quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014, để xác định giá chuyển nhượng vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp tại thời điểm chuyển nhượng.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm