Chiều 27-6, tại UBND tỉnh Kiên Giang đã diễn ra hội nghị thực trạng và định hướng phát triển nghề nuôi biển tỉnh Kiên Giang đến năm 2025, tầm nhìn 2030.
Tham dự và chủ trì hội nghị có Thứ trưởng Bộ NN&PTNN Phùng Đức Tiến; ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thuỷ sản; ông Lâm Minh Thành, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang, ông Nguyễn Thanh Nhàn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang.
Phát triển hiệu quả, bền vững nghề nuôi biển
Thông tin tại hội nghị ông Nguyễn Thanh Nhàn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang cho biết Kiên Giang có diện tích ngư trường rộng hơn 63.290 km2, bờ biển dài khoảng 200km, với hơn 140 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó lớn nhất là đảo Phú Quốc.
“Là tỉnh có vị trí trọng điểm đối với nghề cá ĐBSCL và cả nước, Kiên Giang có khả năng phát triển ngành kinh tế thủy sản cả trong đất liền, trên biển và hải đảo, trong đó có thế mạnh rất lớn về tài nguyên biển. Chính vì thế, tỉnh đã xác định kinh tế biển sẽ là hướng phát triển chủ lực trong thời gian tới, đặc biệt chú trọng phát triển hiệu quả, bền vững nghề nuôi trồng thủy sản trên biển (nuôi biển)”, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang nhấn mạnh.
Theo ông Nhàn, từ năm 2020, UBND tỉnh đã phê duyệt Đề án phát triển nuôi biển theo hướng bền vững trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đến năm 2030. Với mục tiêu thúc đẩy nghề nuôi biển phát triển nhanh theo hướng công nghiệp, hiện đại; đảm bảo môi trường sinh thái gắn với phát triển du lịch và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng biển và hải đảo; góp phần tích cực tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh, tạo sức cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế biển, tăng thu nhập cho người dân.
Qua gần 4 năm thực hiện đề án, bước đầu đạt được kết quả nhất định. Năm 2023, nuôi cá lồng trên biển đạt 3.870 lồng, sản lượng thu hoạch 3.910, tấn tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2020-2023 là 1,65%/năm. Các loại cá chủ yếu như: Cá bóp, cá mú, cá chim vây vàng, cá chẽm... tập trung tại các huyện Kiên Hải, TP Phú Quốc, một số xã đảo của huyện Kiên Lương và TP Hà Tiên.
Đáng chú ý là Trung tâm Khuyến nông đã xây dựng và triển khai các mô hình chuyển đổi từ nuôi lồng truyền thống sang lồng nhựa HDPE, kết quả đã chuyển đổi được 69 lồng, với quy mô 3.531 m3, mô hình này đem lại hiệu quả với năng suất trung bình 16,02kg/m3, cao hơn lồng gỗ truyền thống 4-5kg/m3.
Nuôi nhuyễn thể ven biển với diện tích thể là 23.282 ha, sản lượng 96.327 tấn với các đối tượng như: Sò huyết, sò lông, hến biển, vẹm xanh và nghêu đã phát triển ở các địa phương ven biển. Hình thức nuôi là thả giống ngoài bãi triều và nuôi kết hợp trong vuông tôm, ao mương vườn và dưới tán rừng phòng hộ ven biển....
Giao mặt nước biển phải xin phép 6 bộ ngành
Với những lợi thế trên, thời gian qua Kiên Giang đã thu hút được nhiều doanh nghiệp quan tâm đầu tư. Đến nay Kiên Giang đã cấp chủ trương đầu tư cho 4 dự án đầu tư với tổng vốn 695 tỉ đồng, diện tích mặt nước biển là 2.197,3 ha và tiếp nhận 155 hồ sơ đề xuất thực hiện dự án nuôi biển của các doanh nghiệp và cá nhân.
Tuy nhiên ngành chức năng tỉnh Kiên Giang đánh giá việc phát triển nuôi biển ở tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế chưa xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh bởi 1 số nguyên nhân như: tổ chức, cá nhân phải thực hiện nhiều thủ tục có liên quan và qua nhiều cơ quan để đề xuất chủ trương đầu tư, cấp phép nuôi biển và giao khu vực biển (6 Bộ ngành xem xét cấp phép), nên mất nhiều thời gian dẫn đến một số dự án triển khai chậm so với dự kiến.
Vấn đề quan trọng là hiện Chính phủ chưa ban hành quy hoạch không gian biển quốc gia, chưa xác định đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm tại các đảo (Phú Quốc, Nam Du), là cơ sở để triển khai công tác giao khu vực biển đúng. Ở địa phương đã phê duyệt quy hoạch tỉnh và đề án nuôi biển, nhưng mang tính định hướng vùng huyện, không xác định các khu nuôi biển cụ thể.
Bên cạnh đó việc xây dựng cơ chế chính sách thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển còn chậm. Hạ tầng phục vụ nuôi biển hiện nay vừa yếu vừa thiếu còn nhiều hạn chế...
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến đánh giá cao Kiên Giang đã có sự đóng góp lớn trong ngành nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực thuỷ sản.
"Thuỷ sản có thể nói là lĩnh vực trọng tâm của ngành nông nghiệp. Tuy nhiên chúng ta đang vướng phải vấn đề IUU,cường độ khai thác quá lớn. Trước đây do công tác quản lý của chúng ta chưa chặt chẽ nên dẫn đến bị EC gắn thẻ vàng đến nay đã 7 năm", Thứ trưởng Tiến bày tỏ.
Qua khảo sát vùng nuôi biển ở đảo Nam Du và với vị trí địa lý, đặc điểm địa hình của tỉnh, Thứ trưởng Tiến một lần nữa khẳng định Kiên Giang có nhiều tiềm năng về phát triển thuỷ sản, đặc biệt là phát triển nuôi biển và tin tưởng Kiên Giang sẽ trở thành trung tâm kinh tế biển lớn, đi đầu trong cả nước.
Tuy nhiên để đạt được được điều này thời gian tới Kiên Giang cần phải tập trung thực hiện hiệu quả các quy hoạch ngành Quốc gia, đầu tư, phát triển hạ tầng, công nghệ, chú trọng nguồn nhân lực chất lượng cao… Đồng thời Thứ trưởng nhấn mạnh vấn đề thu hút, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển nuôi biển bền vững.
Theo Cục Thuỷ sản, hiện Việt Nam có 9,5 triệu m3 lồng nuôi biển (4,3 triệu m3 lồng cá biển; 5,2 triệu m3 lồng tôm hùm) và 57 nghìn ha nuôi nhuyễn thể. Năm 2023 sản lượng đạt 789,8 nghìn tấn; 6 tháng 2024 đạt 370,4 nghìn tấn (tăng 12,6% so với cùng kỳ) đạt 45,2% kế hoạch năm.
Mục tiêu năm 2045 công nghiệp nuôi biển trở thành bộ phận quan trọng trong ngành thuỷ sản, đóng góp trên 25% tổng sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 4 tỉ USD.