Biển Đông: Các nước không cần chọn phe Mỹ hay Trung Quốc

Hôm nay (14-8), GS Mark J. Valencia hiện là học giả thỉnh giảng cao cấp tại Viện Nghiên cứu quốc gia về biển Đông, Hải Khẩu, Hải Nam, Trung Quốc (TQ) có bài viết trên báo South China Morning Post. Như thường lệ, vị học giả thường xuyên có bài viết bênh vực TQ rất vô lý này tiếp tục cho rằng “thái độ cứng rắn của Mỹ ở Biển Đông là thiếu khôn ngoan”.

Theo đó, GS Mark J. Valencia cho rằng các động thái và tuyên bố chống lại yêu sách của TQ một cách mạnh mẽ gần đây của Mỹ có thể đưa các nước Đông Nam Á có yêu sách ở Biển Đông rơi vào thế phải chọn “phe Mỹ” hay “phe TQ”. Hệ lụy là, theo ông Valencia, Mỹ sẽ không nhận được phản hồi như mong đợi từ các nước, trái lại còn làm gia tăng căng thẳng tại Biển Đông.

Mỹ không ép các nước “chọn phe”

Tháng 8 năm ngoái, trong một lần gặp gỡ báo chí, chuyên gia Elbridge Colby -cựu Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về phát triển chiến lược và lực lượng Mỹ, một chuyên gia về an ninh quốc phòng - khẳng định Mỹ hoàn toàn tôn trọng nguyên tắc trung lập, không liên minh với nước khác mà Việt Nam theo đuổi.

Tương tự, nhiều quan chức lẫn chuyên gia Mỹ cũng cho rằng Washington không ép các nước châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á, liên minh với mình để đối đầu trực diện với TQ theo kiểu chọn lựa giữa Mỹ và Liên Xô vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Mỹ hiểu được cái khó của các nước châu Á mà chính Philippines là bài học rõ ràng nhất – một quốc gia có lợi thế sau khi thắng TQ vụ kiện lên Tòa Trọng tài 2016 tại Hague (Hà Lan) nhưng phải nhượng bộ Bắc Kinh.

“Lời nguyền địa lý” không tạo ra nhiều cơ hội thắng thế cho các nước xung quanh Biển Đông trước một TQ mạnh và hung hăng, trong khi liên minh với Mỹ không thể giải quyết triệt để bài toán khó này. Sự kiện Philippines, đồng minh truyền thống của Mỹ, để lọt bãi cạn Scarborough vào tay TQ năm 2012 cho thấy cái gọi là liên minh để chống lại bá quyền đã trở nên mong manh.

Nhóm tàu Mỹ tập trận tại Biển Đông vào đầu tháng 7. Ảnh: REUTERS

Mặt khác, chính Mỹ cũng không muốn đối đầu trực diện với TQ hoặc đẩy leo thang căng thẳng lên đến mức hai bên phải rơi vào kịch bản tồi tệ nhất – xung đột vũ trang. Chính vì thế, liên minh để cùng chống lại TQ phòng khi chiến tranh vũ trang xảy ra càng trở nên thiếu thực tế.

Cần nhấn mạnh rằng, cái gọi là “liên minh” vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh không còn mấy ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay, chí ít là tại Biển Đông. Bắc Kinh đủ khôn ngoan để kiểm soát tình thế trong “vùng xám”, tức không chiến tranh vũ trang, đồng thời cũng không tạo ra không khí đầy mùi thuốc súng. Mới đây, TQ chủ động lên tiếng “không nổ súng trước” khi đối đầu với Mỹ ở Biển Đông trong bối cảnh cả hai điều động nhiều máy bay, tàu chiến đến khu vực. Căng thẳng là có, nguy hiểm là có, thậm chí cả hai từng va chạm năm 2001 khiến một phi công TQ thiệt mạng, nhưng tất cả đều được kiềm chế tối đa.

Mục tiêu của Washington là gì?

Như vậy, khi gia tăng sức ép lên TQ trên mặt trận ngoại giao lẫn thực địa, Mỹ thật sự kỳ vọng điều gì? Trước tiên là tái khẳng định “giá trị Mỹ”, gắn liền với “cởi mở và tự do” tại khu vực, vốn đã bị các sách lược đe dọa và bắt nạt của TQ lấn át nhiều năm qua. Giới quan sát nhìn nhận rõ Mỹ đã bước sang trang mới ở Biển Đông khi bày tỏ lập trường bác bỏ yêu sách phi pháp của TQ, đứng về lẽ phải, thượng tôn pháp luật, cho dù Washington chưa là thành viên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.

Việc Mỹ nhiều lần lên tiếng và triển khai hành động quân sự tại Biển Đông để bày tỏ sự ủng hộ luật pháp quốc tế, UNCLOS và phán quyết của Tòa Trọng tài 2016 là nhằm khôi phục và giữ vững trật tự hàng hải hợp pháp. Với vai trò quan trọng tại Liên Hợp Quốc, các tổ chức quốc tế và cộng đồng quốc tế, động thái này củng cố niềm tin về trật tự và tính pháp quyền đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, kể cả các nước không muốn bị cuốn vào đối đầu Mỹ-Trung.

Nhìn chung, Mỹ đang nhận được sự ủng hộ của công luận. Sự ủng hộ này không nhất thiết phải được thể hiện bằng sự ca tụng bằng các phát biểu ngoại giao hoa mỹ hoặc bằng cách theo đuổi liên minh. Quan trọng nhất là sự đồng điệu trong tuyên bố lập trường của các nước với Mỹ. Không một nước nào, trong đó có ASEAN, phản đối lập trường và động thái hiện diện của Mỹ, ngoại trừ TQ.

Trái lại, lập trường của Mỹ phù hợp và có sự đồng điệu với phát ngôn và lập trường của Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei, và Việt Nam. “Cuộc chiến công hàm” bắt đầu có sự tham gia của Mỹ, tiếp theo là Úc – vốn không có tuyên bố yêu sách ở Biển Đông. Sự kiện này khó có thể đẩy Mỹ-Trung lâm vào tình thế xung đột khiến các nước thứ ba khó xử, trái lại nó tạo ra tiền lệ thu hút các nước ở ngoài Biển Đông can dự nhiều hơn bằng cách tham gia cuộc chiến pháp lý với Bắc Kinh.

Nếu Nhật, Ấn Độ, các nước EU – các quốc gia vốn không chịu sự dọa nạt của TQ – cùng tham gia “cuộc chiến công hàm”, uy tín và sự chính danh của TQ sẽ bị suy giảm đáng kể, ảnh hưởng to lớn đến việc triển khai các đại kế hoạch mang tính chiến lược mà Bắc Kinh dày công thực hiện như Vành đai – Con đường hay “Made in China 2025”.

Quân đội Trung Quốc liên tục gia tăng căng thẳng ở Biển Đông thời gian qua. Trong ảnh: Một hạm đội hải quân Trung Quốc, trong đó có tàu sân bay Liêu Ninh, tàu ngầm, tàu chiến và máy bay chiến đấu, tham gia tập trận ở Biển Đông năm 2018. Ảnh: GETTY IMAGES

Như vậy, nếu nhìn rộng vấn đề Biển Đông ra chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, dễ thấy tư duy chạy đua vũ trang hay “chọn phe” để phòng xung đột đã không còn thực tế. Mục tiêu của Mỹ là tấn công vào các giá trị tư tưởng, pháp luật mà TQ đang áp đặt tại khu vực.

Phương tiện của Washington không còn đổ dồn vào Lầu Năm góc với các chiến dịch quân sự đình đám, mà được đa dạng hóa thành các hoạt động ngoại giao, hợp tác kinh tế (trong đó có kinh tế biển), hợp tác quốc phòng (trong đó có chia sẻ tình báo, hỗ trợ phát triển năng lực cảnh sát biển, đào tạo nguồn nhân lực), chia sẻ lập trường pháp lý, v.v.

Chọn lựa nào cho Đông Nam Á?

Với sự gia tăng hiện diện của Mỹ, rõ ràng các nước Đông Nam Á, chí ít là các nước có tranh chấp Biển Đông, có nhiều hơn một lựa chọn là liên minh. Nhắc lại thời kỳ Chiến tranh Lạnh, thế giới ngoài hai khối đối đầu do Mỹ và Liên Xô lãnh đạo, còn có các nước thứ ba với Phong trào Không liên kết (Non-Aligned Movement). Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế của Khoa Quan hệ Quốc tế, ĐH KHXH&NV TP.HCM (2013) giải thích đây là “các quốc gia tự xem là không liên kết với hay chống lại khối xã hội chủ nghĩa lẫn khối tư bản chủ nghĩa trong Chiến tranh Lạnh”.

Các quốc gia Đông Nam Á hoàn toàn có thể theo phương án này, và trên thực tế hiện nay, ngay như đồng minh của Mỹ là Philippines, cũng làm như vậy. Theo Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, nền tảng của Phong trào không liên kết bao gồm năm nguyên tắc chung sống hòa bình: (i) tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau; (ii) không xâm lược lẫn nhau; (iii) không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; (iv) bình đẳng và cùng có lợi; (v) cùng tồn tại hòa bình.

Liên hệ trường hợp Việt Nam, đường lối ngoại giao “bốn không” (nói như Đại sứ Nguyễn Hồng Thao) là một chọn lựa hợp lý: (1) không tham gia liên minh quân sự; (2) không liên kết với nước này chống nước kia; (3) không để nước khác đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống nước khác; (4) không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Sách lược này giúp Việt Nam minh định rõ đâu là đấu tranh bảo vệ chủ quyền tối thượng phải theo đuổi, và đâu là vòng xoáy xung đột của nước lớn phải tránh. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi giải quyết xung đột Biển Đông.

Quan chức hải quân Mỹ và lực lượng hải quân ASEAN tham gia lễ khai mạc diễn tập chung Mỹ-ASEAN hôm 2-9 tại Thái Lan. Ảnh: AP

Nói như vậy không có nghĩa là Đông Nam Á đứng ngoài sự hiện diện của Mỹ và các nước thứ ba tại Biển Đông. Các nước có thể cùng Mỹ và bên thứ ba gia tăng năng lực hải quân để bảo vệ chủ quyền; bảo vệ môi trường biển; hợp tác khai thác tài nguyên, năng lượng trên biển; thúc đẩy tự do hàng hải; ủng hộ việc thành lập các tổ chức quốc tế thúc đẩy việc giải thích UNCLOS và luật pháp quốc tế về tranh chấp Biển Đông, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm trong việc áp dụng các biện pháp pháp lý vào giải quyết tranh chấp Biển Đông; v.v. Những giải pháp này vừa giúp bản thân các nước Đông Nam Á mạnh lên, vừa giúp thế giới nhận thức rõ hơn về yêu sách phi pháp của TQ. Từ đó, nó tác động và định hình các chiến lược điều chỉnh cách hành xử của Bắc Kinh trong tương lai.

Mỹ và các nước cùng nhau đến Biển Đông, không nhất thiết phải lập liên minh, sẽ có thể khiến TQ phải thận trọng và dè chừng hơn. Trong khi đó, các nước Đông Nam Á có không ít lựa chọn tốt hơn việc “chọn phe” Mỹ hay TQ. Một điều rất rõ ràng rằng, Biển Đông nếu vắng Mỹ và thiếu sự đoàn kết chặt chẽ của quốc tế, TQ sẽ lấn tới để biến nơi này thành “ao nhà”, làm bàn đạp nhắm vào các chuỗi xa bờ cách lãnh thổ TQ hàng ngàn dặm.

 

Về Phong trào Không liên kết

Những nhà lãnh đạo được coi là đồng sáng lập Phong trào Không liên kết bao gồm Thủ tướng Jawaharlal Nehru của Ấn Độ, Tổng thống Ai Cập Gamal Abdul Nasser, Thống chế Josip Broz Tito của Nam Tư, Tổng thống Sukarno của Indonesia, và Tổng thống Kwame Nkrumah của Ghana. Dù cho đến năm 1961 Phong trào mới chính thức được thành lập ở Belgrade (Nam Tư cũ) nhưng nguồn gốc của Phong trào xuất phát từ Hội nghị thượng đỉnh Á Phi tổ chức ở Bandung, Indonesia vào tháng 4-1955.

Phần lớn thành viên của Phong trào Không liên kết là các quốc gia nằm ở châu Phi và châu Á, và chiếm đa số trong Liên Hiệp Quốc. Cụ thể, hiện thành viên của Phong trào không liên kết chiếm gần 2/3 thành viên Liên Hiệp Quốc và 55% dân số thế giới.

(Trích) Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013), dẫn lại từ Nghiencuuquocte.org

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm