Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao vừa chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm, hủy hai bản án sơ và phúc thẩm vụ tranh chấp hợp đồng hứa thưởng liên quan đến căn nhà 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai, quận 3 (hội sở Ngân hàng ACB) trị giá 54 tỉ đồng giữa luật gia Đặng Đình Thịnh với mẹ con bà Vương Thị Khanh (Việt kiều Mỹ). Theo đó, giao hồ sơ vụ án về cho TAND TP.HCM xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Theo nhận định của tòa, vụ án này có bốn vấn đề chính cần phải được xem xét giải quyết làm rõ. Một là có việc phía bị đơn ký các giấy tờ hợp đồng hứa thưởng (kèm phụ lục hợp đồng), thỏa thuận hứa thưởng, bản cam kết... Trong trường hợp cần thiết thì phải giám định chữ ký của họ làm căn cứ giải quyết. Hai là các cấp tòa chưa xác định có đúng bà Khanh, ông Quang ký các thỏa thuận trên hay không mà căn cứ vào bản thỏa thuận ký tại Mỹ không được hợp pháp hóa lãnh sự để buộc bà Khanh, ông Quang trả cho ông Thịnh 55 tỉ đồng là không đúng quy định tại khoản 1 Điều 418 BLTTDS 2004. Ba là đối với căn nhà 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai, trường hợp này cần hỏi ý kiến của tám người con còn lại về việc hứa thưởng cho ông Thịnh thế nào mới đủ căn cứ giải quyết vụ án. Bốn là về tố tụng trường hợp này phải giải quyết đồng thời các quan hệ tranh chấp trong cùng một vụ án và đối trừ nghĩa vụ giữa các đương sự thì mới đảm bảo quyền lợi cho các đượng sự theo đúng quy định tại Điều 38 BLTTDS 2004.
Trước đó, TAND Cấp cao tại TP.HCM xử phúc thẩm nhận thấy việc giải quyết nhiều quan hệ tranh chấp trong cùng vụ án là vi phạm tố tụng. Hai đồng bị đơn vì lợi ích của nhau phát sinh tranh chấp quay lại đối lập không thể giải quyết được. Lẽ ra cấp sơ thẩm phải hướng dẫn cho các bên khởi kiện theo thủ tục khác... Cấp sơ thẩm đã đưa vào cùng giải quyết là không chính xác, không đúng luật định cần hủy để xử lại theo đúng luật. Nhưng cấp phúc thẩm giữ nguyên phần bản án sơ thẩm về phần hứa thưởng với ông Thịnh, công nhận thỏa thuận hứa thưởng, buộc ông Quang, bà Khanh trả cho nguyên đơn 54 tỉ đồng. Còn các quan hệ tranh chấp còn lại hủy để xử lại theo đúng luật.
Nguyên đơn, ông Thịnh (đứng) tại phiên xử phúc thẩm
Như Pháp Luật TP.HCM đã thông tin, căn nhà trên thuộc sở hữu của vợ chồng bà Khanh. Năm 1980, họ lập tờ ủy quyền cho người khác để xuất cảnh. Đến năm 1999, UBND TP xác lập sở hữu nhà nước đối với căn nhà này theo diện nhà vắng chủ. Khi chồng chết, bà Khanh và con trai Nguyễn Đắc Quang về Việt Nam xin lại nhà. Năm 2007, bà Khanh và con trai ủy quyền cho ông Thịnh thay mặt gia đình liên hệ với nhiều bộ, ngành đòi lại căn nhà này và ký thỏa thuận hứa thưởng cho ông Thịnh với mức thưởng là 35% trên tổng trị giá nhà và đất.
Ông Thịnh cho rằng sau khi được Nhà nước trả nhà, gia đình bà Khanh bội ước, trốn tránh nghĩa vụ trả thưởng và bán căn nhà này cho nhiều người. Vì vậy, ông khởi kiện bà Khanh và ông Quang ra tòa...
Sau đó, Kháng nghị giám đốc thẩm phân tích năm 2007-2008 ông Thịnh, bà Khanh và con trai Nguyễn Đắc Quang đã lập nhiều phụ lục hợp đồng, cam kết hứa thưởng cho ông Thịnh 15% sau đó tăng lên 35% giá trị căn nhà nếu đòi được nhà. Cam kết này được lập tại Mỹ và có công chứng song không được hợp pháp hóa lãnh sự của cơ quan có thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Khanh chỉ thừa nhận ký hợp đồng hứa thưởng ngày 3-1-2007 tại TP.HCM, mức thưởng là 15% giá trị nhà, đất lấy lại được. Còn thỏa thuận tại Mỹ tăng mức thưởng lên 35% do bà Khanh không ký. Ông Quang cũng khai chỉ đồng ý trả cho luật gia tiền công sức dựa trên những chi phí hợp lý.
Như vậy hai cấp chưa xác định có đúng bà Khanh, ông Quang ký các thỏa thuận trên hay không mà căn cứ vào bản thỏa thuận ký tại Mỹ không được hợp pháp hóa lãnh sự để buộc bà Khanh, ông Quang trả cho ông Thịnh hơn 54 tỉ đồng là không đúng quy định. Ngoài ra, nhà, đất thuộc sở hữu vợ chồng bà Khanh. Chồng bà Khanh mất năm 2004, vợ chồng có chín người con chung. Trong khi hợp đồng hứa thưởng chỉ có bà Khanh và ông Quang ký, cần xác định ý kiến của tám người con còn lại...