Vẫn chưa xử được vụ gắn nhãn hiệu nổi tiếng lên áo thun
Sáng nay, 29-5, HĐXX TAND huyện Bình Chánh do thẩm phán Nguyễn Thế Dũng làm chủ toạ đã mở lại phiên toà sơ thẩm lần hai để xét xử vợ chồng Ngô Thị Thuý Phượng bị truy tố về tội sản xuất, buôn bán hàng giả sau khi án sơ thẩm lần một bị huỷ hơn ba năm trước.
Tuy nhiên, HĐXX đã phải hoãn phiên toà vì hai bị cáo và luật sư cùng không đến tham gia phiên toà dù đã được toà triệu tập hợp lệ. Dự kiến, ngày 26-6, toà sẽ mở lại phiên xử.
Vụ án gây tranh cãi về chuyện số áo thun tang vật của vụ án là hàng giả hay hàng nhái. Nếu là hàng giả thì việc xử lý vợ chồng Phượng về tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Điều 156 BLHS cũ (mức án cao nhất đến 15 năm tù) là đúng. Nhưng nếu là hàng nhái thì hai bị cáo có dấu hiệu vi phạm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo Điều 171 BLHS cũ, mức án cao nhất chỉ ba năm tù, trong khi hai bị cáo bị tạm giam đã bốn năm, hiện được tại ngoại.
Phiên toà vắng mặt hai bị cáo và luật sư bào chữa dù được triệu tập hợp lệ nên phải hoãn đến ngày 26-6
Theo cáo trạng, vợ chồng Phượng thuê công nhân may áo thun gắn nhãn hiệu Lacoste từ tháng 5-2012 tại quận Gò Vấp. Tháng 8-2012, vợ chồng Phượng bị quản lý thị trường lập biên bản vi phạm. Quyết định xử phạt hành chính không có người nhận vì vợ chồng Phượng ngừng hoạt động, bán hết thiết bị máy móc, chuyển tất cả áo về huyện Bình Chánh.
Tháng 12-2012, chồng Phượng thuê xe vận chuyển số áo thun trên để Phượng đem bán thì bị Đội Quản lý thị trường huyện Bình Chánh lập biên bản tạm giữ toàn bộ số hàng gồm 13.240 áo thun nữ, 2.010 áo thun nam mang nhãn hiệu Lacoste.
Giám định của Phân viện khoa học hình sự kết luận: “Bản in 04 (bốn) nhãn treo áo thun nam, nữ nhãn hiệu Lacoste ký hiệu từ A1 đến A4 không trùng với bản in 04 (bốn) nhãn treo áo thun nam, nữ nhãn hiệu Lacoste ký hiệu từ M1 đến M2”.
Kết quả định giá xác định tổng giá trị số áo tang vật tương đương với hàng thật là gần 25,5 tỉ đồng.
Vợ chồng Phượng bị bắt tạm giam từ tháng 8-2013. VKSND huyện Bình Chánh căn cứ vào kết quả định giá để truy tố cả hai về tội buôn bán hàng giả theo khoản 3 Điều 156 BLHS cũ. Đối với hành vi sản xuất hàng giả, theo CQĐT và VKS, vì công ty của vợ chồng Phượng đã ngưng hoạt động nên chưa đủ căn cứ xác định.
Tháng 8-2014, TAND huyện Bình Chánh xử sơ thẩm lần đầu đã phạt Phượng bảy năm tù, chồng Phượng năm năm tù về tội trên...
Tháng 3-2015, TAND TP.HCM hủy án sơ thẩm vì quá trình điều tra chưa xác định số lượng công nhân, máy móc, địa điểm sản xuất, nguồn gốc nguyên vật liệu, sản phẩm tiêu thụ như thế nào… Về việc định giá, qua so sánh mẫu áo thun có gắn nhãn Lacoste do các bị cáo sản xuất với hàng thật của công ty không có mẫu hàng giống nhau nên cần phải xem lại việc lấy giá của hàng thật để xác định giá của hàng tang vật. Đồng thời việc tiêu hủy áo thun tang vật là không đúng vì vẫn có giá trị sử dụng...
Áo thun đỏ Lacoste thật (trái) và hàng tang vật. Ảnh: H.YẾN
Theo một thẩm phán TAND TP.HCM (đề nghị không nêu tên), hành vi vì mục đích kinh doanh mà gắn nhãn hàng nhái nhãn hàng của thương hiệu được bảo hộ lên áo thun của hai bị cáo có dấu hiệu của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo Điều 171 BLHS cũ.
Theo khoản 2 Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng hóa, bao bì của hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu… đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu.
Cạnh đó, Thông tư liên tịch 01/2008 của TAND Tối cao - VKSND Tối cao - Bộ Công an - Bộ Tư pháp (hướng dẫn việc truy cứu TNHS đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ) quy định: Người nào vì mục đích kinh doanh mà cố ý thực hiện một trong các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp có đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu quy định tại khoản 2 Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu TNHS về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Cũng theo thông tư này, gây hậu quả nghiêm trọng là đã thu được lợi nhuận từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu nhãn hiệu từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng hoặc hàng hóa vi phạm có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng.
Như vậy, đối chiếu với quy định, hành vi của hai bị cáo có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, việc định giá thiệt hại cần phải xem lại vì các bị cáo không bán áo thun với giá hàng thương hiệu nên không thể lấy giá trị hàng thương hiệu để tính cho số áo tang vật. Cạnh đó, nếu thiệt hại các bị cáo gây ra dưới 150 triệu đồng thì chỉ có thể xử lý hình sự họ khi có tố cáo của đơn vị bị thiệt hại. Bởi lẽ tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo khoản 1 Điều 171 BLHS cũ hoặc khoản 1 Điều 226 BLHS 2015 đều là những tội phạm chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của bị hại.
Những vấn đề cần làm rõ để chứng minh hàng giả
Hiện nay, bản án hình sự sơ thẩm lần một hồi tháng 8-2014 của TAND huyện Bình Chánh đã bị hủy để điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung. Do đó, việc xác định hàng giả về nội dung (giả về chất lượng hoặc công dụng) tại thời điểm này cần dựa vào văn bản mới.
Cụ thể: Khoản 8 Điều 3 Nghị định 124/2015 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 185/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng) quy định hàng giả gồm:
a) Hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký;
b) Hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
…
Để kết luận đây là áo thun giả hay áo thun xâm phạm nhãn hiệu cần phải giám định để xác định theo tiêu chuẩn mà nhà sản xuất đã đăng ký về hàng may mặc (chẳng hạn, tiêu chuẩn về chất liệu vải may mặc gồm nhiều tiêu chuẩn như: độ thoáng khí, độ bền mài mòn, độ thoáng khí, độ hút ẩm….) , trên cơ sở đó mới có thể kết luận: “Hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa”.
Kết luận giám định như nêu trên chưa cho phép kết luận đây là hàng giả hay hàng xâm phạm kiểu dáng công nghiệp (một trường hợp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nhưng không bị xử lý hình sự về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp). Kiểu dáng công nghiệp có phải là một trong các tiêu chuẩn cơ bản của áo thun nhãn hiệu Lacoste mà nhà sản xuất đã công bố không? Đây là điều mà bản án sơ thẩm và phúc thẩm không nêu ra khi tranh luận với luật sư cho rằng đây chỉ là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (xâm phạm nhãn hiệu – do áo thun gắn nhãn hiệu Lacoste).
Như vậy, để có thể kết luận áo thun gắn nhãn hiệu Lacoste trong vụ án này là hàng giả cần phải xác định: (1) Các tiêu chuẩn chính về áo thun Lacoste đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; (2) Có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa.
TS PHAN ANH TUẤN, trưởng bộ môn Luật Hình sự Trường Đại học Luật TP.HCM