Bà vợ nào được hưởng thừa kế?

LTS: Báo Pháp Luật TP.HCM ngày 13-8 đã phản ánh vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất của vợ con ông C. sau khi ông qua đời năm 1993.

Sau nhiều phiên xử, gần đây nhất, TAND huyện Củ Chi và TAND TP.HCM đã quyết định công nhận hai người vợ trước giải phóng 1975 (vào năm 1950 và 1960) của ông C. là vợ hợp pháp, không công nhận bà vợ tên E. chung sống vào năm 1979…

Sau khi báo phát hành, nhiều ý kiến bàn bạc, tranh luận với quan điểm trái ngược: Có người nói các cấp tòa xử đúng, cũng có người bảo không phù hợp pháp luật, cần công nhận bà E. cũng là vợ của ông C. Chúng tôi xin giới thiệu ý kiến của hai chuyên gia, thể hiện theo hai luồng nhận thức khác nhau như trên để bạn đọc tham khảo về mặt pháp lý của vấn đề.

Công nhận hai bà trước là vợ: Phải có chứng cứ!

Theo Nghị quyết số 02 ngày 19-10-1990 của TAND Tối cao (hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thừa kế năm 1990), trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-1-1960, ngày công bố Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977, ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.

Nếu có chứng cứ (bằng văn bản) hoặc sự làm chứng khách quan của những người xung quanh về việc họ chung sống như vợ chồng thì có thể công nhận là vợ chồng. Tuy nhiên, để được công nhận là vợ chồng thì tòa cần phải chú trọng vào chứng cứ (bằng văn bản), hộ khẩu, khai sinh, các loại giấy tờ khác.

Bà vợ nào được hưởng thừa kế? ảnh 1

Ngược lại, nếu không chứng minh được thì sẽ không được coi là vợ chồng. Khi đó, bà E. mới thực sự là vợ vì đủ các điều kiện được quy định tại Nghị quyết 35 ngày 9-6-2000 về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình và Thông tư liên tịch số 01 của TAND Tối cao, VKSND Tối cao, Bộ Tư pháp ngày 3-1-2001 hướng dẫn nghị quyết nói trên.

Trường hợp này, theo tôi, các cấp tòa sơ, phúc thẩm chưa đưa ra được chứng cứ và sự làm chứng khách quan mà đã công nhận hai bà trước là vợ là chưa thỏa đáng. Cụ thể: Người con gái được cho là con chung giữa ông C. và bà thứ hai lại khác họ với ông C. Ngoài ra, chính quyền địa phương nơi bà thứ nhất và bà thứ hai đều xác nhận trong sổ bộ gốc cho thấy hai bà này không hề có liên quan đến ông C...

Tiến sĩ NGUYỄN VĂN TIẾN, giảng viên Trường ĐH Luật TP.HCM

Đã đủ chứng cứ rồi, không cần chứng minh nữa!

Do hoàn cảnh lịch sử của nước ta, những người chung sống như vợ chồng với nhau từ trước ngày miền Nam giải phóng đều được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp, đều được hưởng thừa kế di sản của nhau. Trong tinh thần đó, Nghị quyết số 02 ngày 19-10-1990 của TAND Tối cao đã hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 như sau: Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 25-3-1977 đối với miền Nam) thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng.

Dĩ nhiên về nguyên tắc, khi đương sự nêu yêu cầu trước tòa cũng như khi tòa quyết định việc gì đều phải có chứng cứ. Qua vụ án này, việc công nhận hai bà vợ trước là vợ, cũng như không công nhận bà E. là vợ, theo tôi, hai cấp tòa sơ, phúc thẩm đã có đủ chứng cứ thuyết phục. Thực vậy, qua hồ sơ cho thấy tại biên bản lấy lời khai của bà E. và các con của bà E. tại tòa ngày 22-8-2005, họ đã xác nhận ông C. có tất cả ba vợ và sáu người con; theo đó gồm có cả hai vợ trước 1975 và hai người con của hai vợ đó. Trong đó có người con gái chung của ông C. và bà vợ thứ hai, dù người con đó mang họ mẹ, khác họ ông C. Cũng cần để ý là theo pháp luật trước năm 1975, vợ chồng không có đăng ký hôn thú hợp pháp, con đẻ ra phải theo họ mẹ, không được lấy họ cha. Vả lại, trong hồ sơ vụ án, nhiều nhân chứng đã xác nhận sự kiện này (như lời khai của em ông C. và các nhân chứng khác đã được lấy lời khai thành bút lục).

Vào thời điểm năm 1979, ông C. chung sống như vợ chồng với bà E., đó là quan hệ không hợp pháp, không được pháp luật công nhận là vợ chồng vì lúc đó ông C. đang có vợ, hai người không đủ điều kiện kết hôn với nhau (theo Điều 10, Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình và Nghị quyết số 35 ngày 9-6-2000).

Theo tố tụng dân sự, khi một bên đương sự thừa nhận những tình tiết, sự kiện do bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không cần phải chứng minh nữa. Cũng như lời khai của đương sự và lời khai của người làm chứng đều được coi là chứng cứ. Nguyên tắc này được các tòa án áp dụng thống nhất từ trước đến nay và pháp luật hiện hành cũng vậy (theo Điều 81, 82, 83 Bộ luật Tố tụng dân sự).

Luật sư-Tiến sĩ PHAN ĐĂNG THANH

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm