Theo Nghị định 100/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế, hộ gia đình, cá nhân có số thuế sử dụng đất phi nông nghiệp phải nộp hằng năm từ 50.000 đồng trở xuống sẽ được miễn thuế.
Nghị định 100 cũng sửa đổi, bổ sung nhiều quy định liên quan đến thuế như sau:
Người nộp thuế chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định, thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan quản lý thuế, thời hạn trong quyết định xử lý của cơ quan quản lý thuế thì phải nộp đủ tiền thuế và tiền chậm nộp theo mức bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp (quy định cũ là 0,05%).
Đối với các khoản nợ tiền thuế phát sinh trước 1-7-2016 mà người nộp thuế chưa nộp, kể cả khoản tiền nợ thuế được truy thu qua kết quả thanh tra, kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền thì được chuyển sang áp dụng mức tính tiền chậm nộp theo tỉ lệ trên từ 1-7-2016.
Miễn, giảm Thuế Tiêu thụ đặc biệt, Thuế Tài nguyên, Thuế Thu nhập cá nhân cho người nộp thuế bị thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ không có khả năng nộp thuế theo quy định của pháp luật;
Miễn thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế sử dụng đất nông nghiệp, tiền thuê đất, thuê mặt nước, lệ phí trước bạ cho người nộp thuế theo quy định của pháp luật;
Miễn thuế đối với hộ gia đình, cá nhân có số thuế sử dụng đất phi nông nghiệp phải nộp hằng năm từ 50.000 đồng trở xuống.
Trường hợp miễn, giảm tiền sử dụng đất, cơ quan thuế căn cứ vào hồ sơ địa chính kèm theo giấy tờ chứng minh thuộc đối tượng được miễn, giảm tiền sử dụng đất và các văn bản liên quan để xác định số tiền sử dụng đất được miễn, giảm, số tiền sử dụng đất phải nộp. Cơ quan thuế không ban hành quyết định miễn, giảm thuế mà xác định rõ số tiền sử dụng đất được miễn, giảm trên tờ thông báo nộp tiền sử dụng đất của cơ quan thuế.
Nghị định 100 có hiệu lực thi hành từ 1-7-2016 (riêng khoản 2 Điều 3 của Nghị định 100 có hiệu lực thi hành từ 1-9-2016).