Ngày 29-11, TAND TP.HCM xử phúc thẩm đã tuyên giảm án từ ba năm xuống còn một năm ba tháng 12 ngày và tuyên bố trả tự do cho Nguyễn Thị Thùy (sinh năm 1980, ngụ Bến Tre) bị truy tố về tội môi giới mại dâm.
Thùy từng bị truy tố theo khoản 2 Điều 255 (có khung hình phạt 3-10 năm tù) với tình tiết định khung là phạm tội nhiều lần. Sau hai lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tại phiên xử lần thứ ba hồi tháng 8, TAND quận 9 đã tuyên phạt Thùy ba năm tù. Thùy kháng cáo kêu oan.
Theo hồ sơ, ngày 17-8-2016, ông H. đến quán cà phê do Thùy làm chủ và đặt vấn đề muốn mua dâm với nhân viên của quán. Thùy đồng ý rồi báo cho nhân viên tên T. ra tiếp. Bị cáo nhận của ông H. 600.000 đồng, giữ lại 100.000 đồng và đưa cho T. 500.000 đồng. Khi ông H. và nhân viên T. đang thực hiện hành vi bán dâm tại nhà trọ gần đó thì bị công an bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định thêm trước đó ít ngày Thùy cũng có hành vi tương tự để môi giới cho hai người này.
Nguyễn Thị Thùy tại tòa. Ảnh: YC
Đầu phần thẩm vấn tại tòa phúc thẩm, Thùy kêu oan, cho rằng chỉ gọi nhờ nhân viên T. cho ông H. Theo bị cáo, tại CQĐT thừa nhận tội là do bị tát vào mặt và bị dọa chích roi điện. Nhưng sau đó bị cáo thay đổi yêu cầu kháng cáo là xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện VKS phúc thẩm đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên mức hình phạt mà bản án sơ thẩm đã tuyên.
Hai luật sư (LS) bào chữa cho bị cáo thì cho rằng Thùy chỉ phạm tội một lần vào ngày 17-8-2016, đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ để giảm án thấp nhất cho bị cáo. Việc bị cáo không nhận tội xuất phát từ nhận thức thấp, không biết việc làm của mình là trái pháp luật. Tòa sơ thẩm áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần với bị cáo là không có cơ sở, vì lời khai của ông H., chị T. và bị cáo có mâu thuẫn.
Về tố tụng, LS cho rằng có vi phạm về thủ tục tố tụng, trong đó có việc điều tra viên cùng một lúc ký tên và đóng dấu bốn biên bản lấy lời khai vào cùng khoảng thời gian… Cấp sơ thẩm đã hai lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng CQĐT đều không tiến hành đối chất để xác thực lại lời khai.
Đối đáp lại với LS, VKS cho rằng hồ sơ vụ án có một số vi phạm về thủ tục tố tụng nhưng vẫn đảm bảo khách quan. Bốn bản lời khai được lập trong cùng một lúc nhưng có nội dung khớp nhau. Việc đối chất lời khai không làm được vì không xác định được nơi ở của ông H. và chị T.
Cuối cùng HĐXX nhận định cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội môi giới mại dâm là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Hơn nữa, tại tòa bị cáo cũng đã thừa nhận hành vi phạm tội, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó đã có đủ căn cứ xác định bị cáo phạm tội.
Nhưng HĐXX cho rằng lời khai của ông H. và chị T. không thể hiện được việc bị cáo phạm tội nhiều lần. Từ những mâu thuẫn trên, lẽ ra cần phải tiến hành cho đối chất nhưng việc này không thể thực hiện được do không xác định được nơi ở của ông H. và chị T. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai để kết tội bị cáo phạm tội nhiều lần là thiếu cơ sở, gây bất lợi cho bị cáo. Do đó, HĐXX xét thấy có cơ sở để khẳng định bị cáo chỉ phạm tội một lần vào ngày 17-8-2016.
Ngoài ra, theo HĐXX, có căn cứ áp dụng quy định có lợi cho bị cáo khi BLHS 2015 quy định tội môi giới mại dâm chỉ có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm (nhẹ hơn BLHS 1999 là từ sáu tháng đến năm năm). Bị cáo đã bị tạm giam một năm ba tháng 12 ngày, nằm trong khung khoản 1 Điều 255 BLHS 1999 và cũng nằm trong khung khoản 1 Điều 328 BLHS 2015. Vì thế xét thấy nên xử phạt bị cáo bằng thời gian tạm giam là phù hợp.
Từ đó, HĐXX phúc thẩm chấp nhận toàn bộ kháng cáo, xử phạt Thùy một năm ba tháng 12 ngày, trả tự do tại phiên tòa.