Sinh năm 1958, nghĩa là năm nay anh chỉ 48 tuổi, cái tuổi không còn trẻ nhưng cũng chưa phải là già, nhưng anh lại cho rằng anh già trước tuổi vì nghèo, vì sớm lặn hụp, dãi nắng dầm mưa.Nhìn cái dáng vẻ dạng dày, phong độ và sang trọng như một doanh nhân, nói năng điềm đạm và lưu lóat, không thể hình dung nổi Hùng Cá đã từng trải qua một đọan đời cơ cực và chữ nghĩa thì chỉ tạm đủ để đọc và viết một cách nhọc nhằn.
Là con thứ năm trong một gia đình có sáu anh em, sự nghèo khó không cho phép Hùng Cá vượt qua khỏi lớp ba ở trường làng, anh phải lao vào cuộc mưu sinh ngay từ tuổi thơ bằng cái chài, tay lưới, miệng đáy trên sông. Nhưng những ngư cụ đơn sơ ấy cũng không phải là của mình, bởi nghèo đến mức không có tiền sắm nổi, phải đi làm thuê cho những gia đình khá hơn trong xóm. Hùng Cá kể: "Hồi ấy hễ tới mùa nước nổi là thiếu gạo ăn, phải thức khuya đi hái bông điên điển và nhổ bông súng ra chợ Hồng Ngự bán mua từng lon gạo sống qua ngày, đến mùa khô thì đi gặt mướn, vác lúa mướn, đốn củi mướn. Nói chung là ai mướn gì làm nấy. Mãi đến năm mười chín tuổi, tôi mới tự mua được một giàn lưới đánh cá linh, mà phải mua trước trả sau. Nhưng nhờ mình chí thú làm ăn và giữ được chữ tín nên chủ tiệm họ thương, muốn mua chịu cái gì họ cũng bán. Nhờ vậy mà mình được mua thêm đáy, thêm lưới làm vó gạt".
Năm 1978, vừa bước qua tuổi hai mươi, Hùng Cá phải lòng một cô gái trong làng, dù biết rằng "Tình trong như đã mặt ngòai còn e" nhưng anh cảm thấy ái náy trong lòng mỗi khi nghe câu hát:
"Ví dầu nhà dột cột xiêu
Muốn đi cưới vợ sợ nhiều miệng ăn"
Dường như hiểu được nỗi lòng anh và thương cái tính cần cù, chân thật của anh nên nhà gái mở đường cho anh sang ở rể.
Hai năm sau, khi sinh đứa con trai đầu lòng, Hùng Cá quyết định ra riêng để sống tự lập, cha vợ cấp cho miếng đất bên bờ sông, vợ chồng anh dựng lên một căn chòi mà cho đến bây giờ anh vẫn còn nhớ như một dấu ấn của cơ nghiệp, phải lợp mái trước rồi mới ráp lên vì cái chòi nhỏ đến mức không thể leo lên ngồi lợp. Có vợ, có con, có cuộc sống riêng rồi, Hùng Cá nghĩ rằng nếu đời mình không giàu lên được thì ít ra cũng không thể để cái nghèo lập lại cho đời con, anh sang biên giới Campuchia đấu thầu hàng trăm mẩu đất bưng để độc quyền khai thác cá. Mùa nước nổi thì chài, lưới, đóng đáy, làm vó gạt, mùa khô thì tát trũng, tát kinh mương. Anh kể: "Làm cực vậy nhưng vợ chồng tôi cần kiệm không dám ăn xài, có chín đồng thì ráng kiếm thêm một đồng nữa cho chẳn mười, có số tiền tương đương với chín phân vàng thì ráng mót thêm để mua một chỉ, có chín chỉ rồi thì ráng cho đủ một cây . . ."
Bảy năm sau kể từ lúc dựng lên căn chòi lá, tức năm 1987, Hùng Cá đã tích lũy hơn mười lượng vàng, anh đóng hai chiếc bè nuôi cá basa ở Hồng Ngự. Tuy chưa giàu nhưng đã đọan tuyệt với đói nghèo, đọan tuyệt với ba mươi năm trầm mình dưới đồng bưng, trên sông nước. Và, mười năm sau nữa kể từ ngày hạ thủy chiếc bè cá đầu tiên, Hùng Cá đã thật sự trở thành ông chủ của đòan bè gồm chín chiếc bè ở lớn với tổng trị giá hàng trăm lượng vàng, mỗi năm thu họach ba ngàn tấn cá, mang lại cho anh ba bốn chục tỷ đồng, Hùng Cá bước vào hàng đại gia trong làng bè khu vực Đồng Tháp, An Giang.
Năm 1999, cùng với cá basa, con cá tra bắt đầu có giá trên thị trường thế giới khiến cho nhiều chủ bè chuyển sang nuôi cá tra. Là một người từng lặn hụp dưới đáy sông, am hiểu nhiều lòai cá, thậm chí hiểu cách ăn, cách ở và tính nết của từng lòai cá. Hùng Cá cho rằng cá tra vốn ở biển Hồ, thích nghi với môi trường nước đứng hơn là nước chảy. Thế là không ngần ngại, Hùng Cá đánh bạo mua 6ha đất bãi bồi, thuê sán cạp đào 4 ao, mỗi ao rộng hơn một ha, làm cống thóat nước hai đầu ao để xả nước và lấy nước làm sạch môi trường giống như người ta nuôi tôm công nghiệp. Kết quả vụ đầu tiên anh thu được một ngàn tấn, trừ hết chi phí còn lãi được một tỷ đồng, tính ra lợi nhuận cao hơn mấy lần so với nuôi bè. Rút kinh nghiệm từ vụ đầu, năm sau anh tăng cường một số giải pháp kỹ thuật, năng suất tăng gấp đôi, tức hai ngàn tấn trên bốn ao nuôi.
Từ chủ làng bè, Hùng Cá bước thêm một bước lên bờ thành lập trang trại, anh vừa thuê đất của nhà nước, vừa mua đất của dân bỏ hoang trên bãi bồi dọc theo sông Tiền từ Hồng Ngự đến Thanh Bình để đào ao nuôi cá. Chỉ mấy năm sau, đến năm 2005, Hùng Cá đã có 40 ao cá tra, mỗi ao rộng hơn một hec ta, anh trở thành vua cá miền tây với sản lượng mỗi năm gần 20 ngàn tấn, tổng doanh thu gần 300 tỷ đồng, tương đương với tổng thu ngân sách của một tỉnh nghèo ở đồng bằng sông Cửu Long.
Câu chuyện của Hùng Cá tưởng chừng như trong cổ tích, nhưng từ kết quả của anh, đất bãi bồi ven sông Tiền bao đời ngủ yên nay trở nên sôi động, đang biến thành thánh địa của cá tra. Thế nhưng, theo Hùng Cá, muốn đầu tư cho một ao nuôi, chi phí xây dựng cơ bản phải mất 500 triệu đồng, vốn lưu động cho con giống và thức ăn cần phải có vài ba tỷ đồng nữa, người dân bình thường lấy đâu ra. Chính vì vậy, hiện nay tỉnh Đồng Tháp đã quy họach 1500ha đất bãi bồi để kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngòai nước. Hùng Cá cho biết, huyện Tam Nông vừa mời anh đầu tư 20ha, và anh đã nhận lời.
Tôi hỏi Hùng Cá, với quy mô như vậy thì anh quản lý bằng cách nào, đó chính là điều mà tôi thắc mắc về một con người vốn xuất thân từ chài lưới, lăn lộn với sông nước, đồng bưng. Hùng Cá nói: "Tôi kéo hết anh em, con cháu bên tôi và bên vợ tôi vào cuộc, mình lo vốn và kỹ thuật, khóan cho họ chi phí lao động và chi phí quản lý, sau đó chia lợi nhuận theo tỷ lệ phần trăm, đôi bên ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi với nhau, vì nhau mà sống. Hồi trước nghèo khổ có nhau, bây giờ có điều kiện thì cùng nhau làm giàu"
Đầu năm nay, Hùng Cá mua 12ha đất trong cụm công nghiệp Thanh Bình, một bên cặp bờ sông Tiền, một bên giáp quốc lộ 30 để xây dựng nhà máy chế biến cá xuất khẩu tiêu chuẩn châu Au với tổng vốn đầu tư 60 tỷ đồng, anh cho biết, có thể sau tết nguyên đán, nhà máy bắt đầu họat động.
Tôi đã từng gặp những đại gia xuất thân từ hai bàn tay trắng, mỗi người có một kinh nghiệm, một bí huyết để đương đầu với thương trường. Nhưng Hùng Cá lại nói: "Tôi chẳng có kinh nghiệm gì ngòai kinh nghiệm nuôi cá. Cái nghề nầy ông bà xưa gọi là nghề hạ bạc, nghề Bà Cậu. Nếu làm ăn chân thật, kiên trì thì Bà Cậu đãi cho, còn chụp giựt, mánh mung, âm mưu lấy của người khác làm của mình thì có ngày trả giá. Tôi định phát triển cái nghề nuôi cá đến một lúc nữa rồi giao lại cho ba đứa con trai, nhưng chúng nó không chịu dừng lại, đòi phải lập nhà máy chế biến để xuất khẩu. Chúng nó lập trang veb chào hàng, chẳng bao lâu có mấy chục đơn đặt hàng gởi tới, nhà máy xây không kịp, chúng nó đưa nguyên liệu đi gia công, mới có mấy tháng nay mà đã xuất trên 1500 tấn cá. Thấy con nó làm được nên tôi chiều theo."
Trong công ty, Hùng Cá làm chủ tịch HĐQT, đứa con trai lớn 27 tuổi làm tổng giám đốc, đứa kế 25 tuổi làm giám đốc xuất khẩu, đứa út 23 tuổi làm giám đốc sản xuất, điều hành các khu vực nuôi cá. Bốn cha con đi bốn chiếc xe hơi đời mới trị giá trên hai tỷ đồng, nhưng Hùng Cá lại nói: "Càng đi xe đắt tiền, tôi càng trân trọng cái thời mà tôi đi chài mướn, lúc ấy tôi khát khao làm sao mua được chiếc xuồng ba lá với miệng chài riêng, khát khao được làm chủ một phương tiện mưu sinh giản đơn như thế mà cứ tưởng mình sẽ không có được".
Những năm gần đây, mỗi năm Hùng Cá trích ra vài ba trăm triệu đồng để làm từ thiện như cất nhà tình thương, cứu trợ bệnh nhân nghèo, giúp bà con khó khăn trong mùa lũ . . . con số ấy đối với anh bây giờ không lớn, nhưng đối với anh của gần ba mươi năm trước thì quả là một số vốn mà anh không bao giờ mơ tới.
Đồng Tháp, 2007
Theo Võ Đắc Danh (vannghesongcuulong.org.vn)
nguyenty