TAND TP.HCM vừa công bố Bản án hình sự phúc thẩm ngày 31-10-2025 vụ án Dương Quân T (sinh năm 1984) bị truy tố về tội chiếm giữ trái phép tài sản.
Đòi tiền chuộc điện thoại khách bỏ quên trên xe
Theo cáo trạng, sáng ngày 13-8-2023, bà P đón ô tô do Dương Quân T điều khiển đi từ bến xe đến khách sạn tại quận P, TP.HCM (nay là phường C, TP.HCM). Sau khi rời khỏi xe, phát hiện điện thoại di động iPhone 12 Promax bị rơi trên ô tô của T, bà P nhờ bạn là ông L gọi điện thoại báo và nhắn tin cho T biết để lấy lại điện thoại nhưng T không trả lời.
Sau đó, ông L nhắn tin xin chuộc lại điện thoại thì T yêu cầu muốn chuộc điện thoại phải đưa 10 triệu đồng, bà P xin giảm tiền chuộc xuống còn 9 triệu đồng, T đồng ý và yêu cầu chuyển tiền vào tài khoản của T. Bà P không đồng ý và muốn gặp trực tiếp giao tiền để lấy được điện thoại, T đồng ý và báo địa chỉ gặp nhau.
Chiều cùng ngày, khi bà P đến địa điểm T báo và đang giao tiền cho T thì Công an phường 2, quận P bắt quả tang, qua kiểm tra điện thoại của T có ghi nhận nội dung tin nhắn trao đổi đòi tiền chuộc điện thoại.
Kết luận của hội đồng định giá tài sản điện thoại của bà P có giá trị 16 triệu đồng.
Từ đó, VKSND Khu vực 5 - TP.HCM truy tố T về tội chiếm giữ trái phép tài sản theo khoản 1 Điều 176 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử sơ thẩm ngày 15-8-2025, TAND Khu vực 5 - TP.HCM xử phạt bị cáo T 9 tháng tù về tội chiếm giữ trái phép tài sản. T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho hưởng án treo.
Giảm một phần hình phạt
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo T và luật sư đều đề nghị cho bị cáo hưởng án treo.
Đại diện VKS cho rằng mức hình phạt tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đủ điều kiện để hưởng án treo nhưng xét thủ đoạn bị cáo thực hiện rất tinh vi nên không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng không bổ sung được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Do đó, đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
HĐXX phúc thẩm cho rằng hành vi của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an, an toàn xã hội.
Thủ đoạn phạm tội của bị cáo là tinh vi, luôn thay đổi hình thức giao tài sản, nhận tiền để đối phó với với chủ tài sản và cơ quan công an nên cần phải xử lý nghiêm minh để răn đe, xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo là không có căn cứ.
Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự và phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ các tình tiết giảm nhẹ như đã nêu, xử phạt bị cáo 9 tháng tù về tội chiếm giữ trái phép tài sản là có phần nghiêm khắc.
Bởi lẽ, trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt là 16 triệu đồng, tại khoản 1 Điều 176 của BLHS quy định khung hình phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm đối với tài sản trị giá từ 10 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng.
Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo. Do đó, có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo. Từ đó, HĐXX xử phạt bị cáo T 6 tháng tù về tội chiếm giữ trái phép tài sản.