Lời khai của 2 nhân viên bệnh viện mua kit xét nghiệm chứa nước lọc của Công ty Việt Á

(PLO)- Hai nhân viên Bệnh viện Đa khoa TP Cần Thơ cho rằng không có ý định tham ô tài sản của bệnh viện mà nghĩ đó là tiền của Công ty Việt Á. 

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

Ngày 16-7, TAND TP Cần Thơ mở phiên tòa xét xử vụ án tham ô xảy ra tại Bệnh viện (BV) Đa khoa TP Cần Thơ liên quan Công ty Cổ phần công nghệ Việt Á.

Video: Lời khai của 2 nhân viên bệnh viện mua kit xét nghiệm chứa nước lọc của Công ty Việt Á.

Cùng tội tham ô tài sản, các bị cáo bị đưa ra xét xử gồm: Trần Tiến Lực (nhân viên kinh doanh Công ty Việt Á); Phạm Ngọc Thùy và Đỗ Thị Yến Phương (cùng là nhân viên xét nghiệm của Khoa xét nghiệm, BV Đa khoa TP Cần Thơ).

Cáo trạng cáo buộc từ năm 2018-2021, Thùy và Phương lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao trong quá trình xét nghiệm Viêm gan B, C, lao, Geno type C đã câu kết với Lực đưa vào đơn hàng mua sắm của Bệnh viện Đa khoa thành phố Cần Thơ số lượng Kit và hóa chất xét nghiệm nhiều hơn số lượng cần sử dụng, số lượng nhiều hơn đó được giao bằng hàng khống là nước lọc. Từ đó, BV đã chi trả cho hàng khống với số tiền hơn 1,9 tỉ đồng, trong đó Công ty Việt Á giữ lại hơn 672 triệu đồng, chi trả lại cho Phương, Thủy thông qua Lực số tiền hơn 1,2 tỉ đồng.

Hai nhân viên bệnh viện cấu kết nhân viên Công ty Việt Á tham ô tài sản. Ảnh: HD
Hai nhân viên bệnh viện cấu kết nhân viên Công ty Việt Á tham ô tài sản. Ảnh: HD

Tại toà, bị cáo Phương và Thuỳ khai từ năm 2017 BV sử dụng kit xét nghiệm kèm hóa chất do Công ty Cổ phần công nghệ Việt Á sản xuất. Trong thời gian phối hợp, Lực thông tin với Thùy và Phương rằng phía Việt Á sẽ hỗ trợ mua lại nếu quá trình xét nghiệm có tiết kiệm được hóa chất.

Từ gợi ý của Lực, Phương và Thùy bàn bạc sẽ tính toán số lượng kit và hóa chất đi kèm dùng làm chứng âm, chứng dương dôi dư khi xét nghiệm để chiếm đoạt tiền của BV.

Theo quy trình xét nghiệm sinh học phân tử, ngoài việc sử dụng kit xét nghiệm tương ứng với từng loại bệnh, còn phải sử dụng 1 kit chứng âm, 1 kit chứng dương (kit chứa mẫu bệnh đã biết kết quả âm tính, dương tính) và những hóa chất đi kèm khác trong một lần thực hiện xét nghiệm.

Với loại máy móc của phòng xét nghiệm, Phương và Thùy báo cho Lực biết có thể tiết kiệm được. Cả ba sau đó thống nhất cách thực hiện. Cuối tháng khi kiểm tra kho và dự trù mua sắm cho tháng tiếp theo, Thùy, Phương dự trù số lượng kit và hóa chất cần sử dụng cộng thêm số lượng kit và hóa chất tương ứng với số lượng dôi dư báo cáo về bộ phận liên quan đặt hàng từ Công ty Việt Á.

Sau đó, Thùy, Phương thông tin cho Lực biết đơn hàng có bao nhiêu kit và hóa chất hàng thật, bao nhiêu kit và hóa chất hàng khống để Lực chuyển về Phòng kinh doanh Công ty Việt Á, ghi chú số số lượng hàng khống để phòng chuyển đến bộ phận sản xuất hàng giống hàng thật nhưng bên trong là nước lọc, có đánh dấu để Phương, Thùy biết.

Khi Công ty Việt Á giao hàng, những người tham gia kiểm và nhận hàng gồm nhân viên Khoa Dược, bộ phận kế toán khoa Dược, Phương và Thùy. Nhận được hàng, Phương, Thùy đưa vào tủ đông của phòng xét nghiệm sinh học phân tử, hàng khống thì cả hai lấy bỏ đi.

Sau khi BV thanh toán toàn bộ giá trị đơn hàng cho công ty Việt Á, Lực đề nghị bộ phận kế toán Việt Á căn cứ hóa đơn, bảng đối chiếu công nợ, số lượng hàng khống đã giao để tính toán số tiền hàng khống sau khi trừ chi phí, thuế VAT, tiền chiết khấu trình cho Phan Quốc Việt là Giám đốc Công ty Việt Á duyệt chi.

Bị cáo Trần Tiến Lực cho rằng chỉ làm theo chính sách Công ty Việt Á, bị cáo không có hưởng lợi
Bị cáo Trần Tiến Lực cho rằng chỉ làm theo chính sách Công ty Việt Á, bị cáo không có hưởng lợi

Bị cáo Lực cho rằng bản thân không gợi ý gì, chỉ thông tin lại chính sách của công ty, bị cáo không biết việc chi tiền cụ thể là bao nhiêu nhưng bị cáo xác định tất cả đơn hàng đều đã thanh toán tiền cho Phương và Thuỳ.

“Bị cáo chỉ làm theo chính sách công ty và cố gắng hỗ trợ khách hàng, không có hưởng lợi gì mà chỉ hưởng lương công ty. Theo chính sách của công ty thì mức chiết khấu khoảng 20-25% và công ty gọi là tiền cảm ơn, chia sẻ lợi nhuận từ công ty”, bị cáo Lực khai.

Trả lời HĐXX, bị cáo Lực cho biết số tiền 1,2 tỉ đã đưa hết cho Phương và Thuỳ và cũng không xác định được trong số này hoa hồng của hàng thật là bao nhiêu, hàng khống là bao nhiêu.

Bị cáo Đỗ Thị Yến Phương
Bị cáo Đỗ Thị Yến Phương

Trong khi đó bị cáo Phương và Thuỳ chỉ thừa nhận mỗi người nhận 400 triệu đồng. Bị cáo Phương và Thuỳ khóc và cho biết cả 2 không nhận thức được hành vi của mình là vị phạm pháp luật. “Bị cáo nhiều lần hỏi Lực việc này có ảnh hưởng đến bệnh nhân hay bị sao không thì bị cáo Lực nói không sao hết. Bị cáo cứ nghĩ mình mình hỗ trợ thì công ty chi tiền hoa hồng cho là bình thường. Bị cáo cứ nghĩ đó là tiền của công ty chứ không ngờ lại là tiền của bệnh viện. Thật sự bị cáo không có ý nghĩ làm thiệt hại cho bệnh viện” bị cáo Phương khóc nói và mong HĐXX xem xét lại tội danh cũng như số tiền bị cáo bị quy kết.

Về phía đại diện BV Đa khoa TP Cần Thơ xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Phương và Thuỳ.

Chiều nay phiên toà tiếp tục với phần xét hỏi các bị cáo.

Ngoài ra, quá trình điều tra còn phát hiện khi số lượng bệnh nhân xét nghiệm nhiều và những trường hợp cần xét nghiệm lại, Phương, Thùy tự ý gửi mẫu xét nghiệm cho Công ty Việt Á nhờ xét nghiệm giúp. Công ty Việt Á đã sử dụng hóa chất tách chiết tay để tiến hành xét nghiệm giúp cho hai bị can.

BV thanh toán số tiền hơn 412 triệu đồng là phần chênh lệch giữa xét nghiệm bằng phương pháp tách chiết tay và tách chiết tự động cho Công ty Việt Á. Hành vi này có dấu hiệu vi phạm pháp luật khác, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm