Hoàn thành 55 vòng đua tại Yas Marina với thời gian 1 giờ 39 phút 2,619 giây và về nhất Grand Prix Abu Dhabi, Hamilton chính thức lần thứ 2 giành chức vô địch thế giới. Ngôi sao của Mercedes trở thành tay đua người Anh thứ tư có được thành tích trên sau các huyền thoại tiền bối Jackie Stewart (3 lần VĐTG), Jim Clark và Graham Hill.
Hamilton ăn mừng chiến thắng tại Abu Dhabi.Ảnh:Formula 1. |
Con đường đi tới chiến thắng mà Hamilton trải qua tại Yas Marina tưởng chừng khá khó khăn khi anh xuất phát phía sau đồng đội Rosberg, bỗng bất ngờ trở nên quá dễ dàng với ngôi sao người Anh. Hamilton nhanh chóng vượt qua người đồng đội tại Mercedes trước khi đoàn đua tới Turn 1 lúc xuất phát. Sau đó, Rosberg gặp phải sự cố với hệ thống hybrid trên động cơ của chiếc W05 nên đánh mất tốc độ trước khi tụt lại xuống cuối đoàn đua và về đích ở vị trí thứ 14. Khi cuộc đua còn 2 vòng, các chỉ đạo viên Mercedes khuyên tay đua người Đức bỏ cuộc nhưng Rosberg vẫn khẳng khái tuyên bố: “Tôi muốn thi đấu tới khi cuộc đua kết thúc.”
Sau chặng đua, Hamilton phấn khích: “Đây là ngày tuyệt vời nhất trong cuộc đời tôi Chức vô địch năm 2008 cũng làm tôi rất hạnh phúc. Tuy nhiên, cảm giác lần này dù cũng tương tự nhưng khiến tôi ngây ngất. Dù đã lần thứ hai vô địch nhưng tôi mới cảm thấy như mới chỉ là lần đầu. Chức vô địch lần này rất ý nghĩa với tôi.”
Rosberg bước vào cuộc đua với lợi thế xuất phát đầu. Tay đua người Đức cần giữ vững lợi thế để giành chiến thắng tại Abu Dhabi và hy vọng Hamilton về đích dưới vị trí thứ hai. Nếu cuộc đua diễn ra thuận lợi như ước tính Rosberg sẽ vượt qua được khoảng cách 17 điểm trước chặng đua.
Tuy nhiên, trong khi Hamilton có màn khởi đầu như mơ khi chiếm ngôi đầu dù xuất phát thứ hai ngay sau những giây đầu tiên. Sau vòng đua thứ nhất, Rosberg đã bị người đồng đội bỏ lại phía sau 1,2 giây. Sau đó, Hamilton dần dần nới rộng khoảng cách và kiểm soát đoàn đua. Trước khi vào thay lốp lần đầu tại vòng 10, tay đua người Anh đã nhanh hơn Rosberg 2,7 giây.
Hamilton vượt qua Rosberg ngay từ khi xuất phát.Ảnh:Formula 1. |
Sau đó, Hamilton giữ vững khoảng cách ở mức tương đối an toàn, gần 3 giây tới vòng 23. Lúc này, chiếc W05 của Rosberg bất ngờ lao ra lề đường tại Turn 20 và đánh mất thêm hơn 1 giây. Tới vòng 25, tham vọng bám đuổi Hamilton của Rosberg bị giáng một đòn nặng nề khi các chỉ đạo viên Mercedes thông báo hệ thống thu hồi năng lượng (ERS) trên động cơ chiếc W05 của Rosberg bị trục trặc.
Sự cố bất ngờ khiến chiếc xe của Rosberg bị đánh mất sức mạnh và tốc độ, chiếc W05 hầu như không thể đạt được tốc độ 300km/h. Tay đua người Đức dần dần bị tụt lại. Hy vọng duy nhất lúc này của Rosberg chỉ là cố gắng về đích trong top 5 để chờ đợi Hamilton gặp sự cố phải bỏ cuộc.
Từ khi Rosberg gặp trục trặc, Mercedes liên tục yêu cầu Hamilton chạy thận trọng và chỉnh sửa các thiết lập để đảm bảo an toàn. Tay đua người Anh đã có lúc căng thẳng tới phát cáu và yêu cầu: “Đừng chỉnh sửa gì cả. Tôi đang cảm thấy thoải mái với chiếc xe và muốn chạy nhanh hơn nữa.” Cuối cùng, không một trục trặc nào đến với Hamilton và anh ung dung lần thứ hai giành chức vô địch thế giới.
Hamilton cùng lá cờ Anh chạy 1 vòng quanh đường đua.Ảnh:Formula 1. |
Ở phía sau, đội Williams giành trọn hai vị trí còn lại trên bục podium khi Felipe Massa và Valtteri Bottas lần lượt về đích thứ hai và thứ ba. Massa đã gây sức ép ngẹt thở cho Hamilton ở những vòng đua cuối cùng khi chuyển sang sử dụng lốp siêu mềm ở 12 vòng đua cuối để tấn công đối thủ.
Về đích phía sau bộ đôi Williams là Daniel Ricciardo, tay đua có một chặng đua xuất sắc dù phải xuất phát từ trong pit-lane cùng đồng đội Sebastian Vettel do chiếc RB10 vượt quá giới hạn cho phép về độ võng mũi xe tại vòng phân hạng. Ricciardo về đích thứ tư trong khi Vettel về đích thứ bảy.
Hai tay đua cũng có chặng chia tay đội nhà giống như Vettel là Jenson Button (McLaren) và Fernando Alonso (Ferrari) đã có một chặng đua cảm xúc trái ngược. Chưa được McLaren gia hạn hợp đồng nên gần như chắc chắn Button sẽ chia tay đội đua nước Anh và cả môn đua xe F1, tuy nhiên lão tướng người Anh có một chặng đầy cố gắng để về đích thứ năm. Trong khi đó, Alonso người sẽ chia tay Ferrari để sang McLaren từ mùa tới chỉ về đích thứ chín và đánh dấu mùa giải tồi tệ nhất của Ferrari trong suốt 20 năm qua.
Kết quả Grand Prix Abu Dhabi
Thứ tự | Tay đua | Đội | Vị trí xuất phát | Thành tích | Điểm |
1 | Mercedes | 2 | 1 giờ 39 phút 2,619 giây | 50 | |
2 | Felipe Massa | Williams | 4 | +2,500 | 36 |
3 | Valtteri Bottas | Williams | 3 | +28,800 | 30 |
4 | Daniel Ricciardo | Red Bull | 20 | +37,200 | 24 |
5 | Jenson Button | McLaren | 6 | +60,300 | 20 |
6 | Nico Hulkenberg | Force India | 12 | +62,100 | 16 |
7 | Sergio Perez | Force India | 11 | +71,000 | 12 |
8 | Sebastian Vettel | Red Bull | 19 | +72,000 | 8 |
9 | Fernando Alonso | Ferrari | 8 | +85,800 | 4 |
10 | Kimi Raikkonen | Ferrari | 7 | +87,800 | 2 |
11 | Kevin Magnussen | McLaren | 9 | +90,300 | 0 |
12 | Jean-Eric Vergne | Toro Rosso | 10 | +91,900 | 0 |
13 | Romain Grosjean | Lotus | 18 | +1 vòng | 0 |
14 | Nico Rosberg | Mercedes | 1 | +1 vòng | 0 |
15 | Esteban Gutierrez | Sauber | 14 | +1 vòng | 0 |
16 | Adrian Sutil | Sauber | 13 | +1 vòng | 0 |
17 | Will Stevens | Caterham | 17 | +2 vòng | 0 |
18 | Kamui Kobayashi | Caterham | 16 | Bỏ dở cuộc đua | 0 |
19 | Pastor Maldonado | Lotus | 15 | Bỏ dở cuộc đua | 0 |
20 | Daniil Kvyat | Toro Rosso | 5 | Bỏ dở cuộc đua | 0 |
*) Fastest-lap: 1 phút 44,496 giây do Daniel RIcciardo (Red Bull) lập tại vòng 50.
Bảng xếp hạng cá nhân mùa giải 2014
Thứ tự | Tay đua | Đội | Điểm |
1 | Lewis Hamilton | Mercedes | 384 |
2 | Nico Rosberg | Mercedes | 317 |
3 | Daniel Ricciardo | Red Bull | 238 |
4 | Valtteri Bottas | Williams | 186 |
5 | Sebastian Vettel | Red Bull | 167 |
6 | Fernando Alonso | Ferrari | 161 |
7 | Felipe Massa | Williams | 134 |
8 | Jenson Button | McLaren | 126 |
9 | Nico Hulkenberg | Force India | 96 |
10 | Sergio Perez | Force India | 59 |
11 | Kevin Magnussen | McLaren | 55 |
12 | Kimi Raikkonen | Ferrari | 55 |
13 | Jean-Eric Vergne | Toro Rosso | 22 |
14 | Romain Grosjean | Lotus | 8 |
15 | Daniil Kvyat | Toro Rosso | 8 |
16 | Pastor Maldonado | Lotus | 2 |
17 | Jules Bianchi | Marussia | 2 |
18 | Adrian Sutil | Sauber | 0 |
19 | Marcus Ericsson | Caterham | 0 |
20 | Esteban Gutierrez | Sauber | 0 |
21 | Max Chilton | Marussia | 0 |
22 | Kamui Kobayashi | Caterham | 0 |
23 | Will Stevens | Caterham | 0 |
24 | Andre Lotterer | Caterham | 0 |
Bảng xếp hạng đội đua mùa giải 2014
Thứ tự | Đội đua | Điểm |
1 | Mercedes | 701 |
2 | Red Bull | 405 |
3 | Williams | 320 |
4 | Ferrari | 216 |
5 | McLaren | 181 |
6 | Force India | 155 |
7 | Toro Rosso | 30 |
8 | Lotus | 10 |
9 | Marussia | 2 |
10 | Sauber | 0 |
11 | Caterham | 0 |
Theo Minh Phương (VNE)