Tháng 9-2024, các sản phẩm máy bay không người lái (UAV) 100% "Make in Vietnam" do Công ty RTR sản xuất đã tham dự triển lãm tại Las Vegas (Mỹ). Ngay sau đó, đơn vị này nhận được lời mời bay thử nghiệm quân sự tại Alaska chỉ sau hai tháng.
Nhiều kỳ vọng cho UAV
Ông Lương Việt Quốc, Giám đốc điều hành RTR, chuyên sản xuất UAV, kể câu chuyện trên để chứng minh công nghệ của người Việt luôn sẵn sàng được đón nhận ở các quốc gia phát triển.
Ông Quốc cho biết trong buổi tập trận, các chuyên gia quân sự Mỹ nhận định drone của công ty Việt là thiết bị đầu tiên trên thế giới có khả năng mang theo bộ dò tín hiệu điện từ của quân đội Mỹ, vốn được binh lính đeo trong ba lô bộ binh và bay ở độ cao lớn để mở rộng phạm vi quét.
Cũng theo ông Quốc, trước đây khi làm UAV, nhiều người khuyên ông từ bỏ vì khó cạnh tranh được với Trung Quốc. Nhưng thực tế, Việt Nam có thể sản xuất được UAV chất lượng cao, thậm chí giá thành còn cạnh tranh.
Lấy ví dụ về sản phẩm UAV mang qua Mỹ thử nghiệm, ông Quốc thông tin giá thành đang thấp hơn 30-40% so với sản phẩm tương đương tại Mỹ và chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D) chỉ bằng 1/20.
Tiềm năng của UAV cũng thu hút nhiều doanh nghiệp lớn. Cách đây không lâu, CT UAV (thành viên CT Group) đã ký thỏa thuận cung ứng 5.000 UAV theo hình thức OEM cho đối tác Hàn Quốc. Đây là lô UAV vận tải hạng nặng có tỉ lệ nội địa hóa đạt 85%. Đơn vị này còn đầu tư sản xuất thêm các dòng UAV cứu hộ - y tế chuyên hỗ trợ ứng cứu khẩn cấp ở địa hình khó tiếp cận.
Giữa tháng 12 vừa qua, Tập đoàn FPT cũng công bố đầu tư cho năm công nghệ chiến lược, trong đó có UAV. Tại buổi gặp mặt cộng đồng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của lãnh đạo TP.HCM tối 9-12, ông Trương Gia Bình, Chủ tịch Tập đoàn FPT, chia sẻ: "Tôi đang mơ về một thủ phủ của máy bay không người lái".
Theo ông Bình, Việt Nam có cơ hội lớn sản xuất UAV xuất khẩu toàn cầu, nhất là ứng dụng trong nông nghiệp và vận chuyển y tế. Trong đó, TP.HCM có nhiều lợi thế để trở thành trung tâm kinh tế tầm thấp với UAV. Tập đoàn FPT kỳ vọng trong 10 năm tới, quy mô công nghiệp lĩnh vực này sẽ đạt 10 tỉ USD, giải quyết việc làm cho cỡ 1 triệu lao động.
Với góc nhìn nghiên cứu và kinh nghiệm hợp tác tại Hàn Quốc, Mỹ, Anh..., TS Nguyễn Hải Nguyên, Giảng viên ngành Kỹ thuật robot và cơ điện tử, ĐH RMIT Việt Nam, tái khẳng định Việt Nam đang đứng trước bối cảnh thuận lợi đối với UAV "Make in Vietnam". Điều này xuất phát từ nhu cầu ứng dụng thực tế như logistics vùng sâu vùng xa, nông nghiệp, môi trường và cứu hộ cứu nạn.
Theo TS Nguyên, đây là các bài toán mang tính "địa phương" cao, đòi hỏi khả năng tích hợp hệ thống, độ tin cậy vận hành và dịch vụ đi kèm hơn số lượng và giá thành UAV.
"Cách tiếp cận này cho phép doanh nghiệp Việt tập trung vào UAV chuyên dụng và giải pháp trọn gói, thay vì cạnh tranh trực diện với các nhà sản xuất UAV tiêu dùng toàn cầu vốn có lợi thế lớn về quy mô và chuỗi cung ứng", ông Nguyên gợi ý.
Qua quá trình hợp tác tại châu Á, châu Âu, Mỹ và Úc, TS Nguyên cũng nhận thấy năng lực nghiên cứu nền tảng của Việt Nam hoàn toàn có thể theo kịp chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, điều kiện cần là phải được tiếp cận hạ tầng thử nghiệm, bài toán thực tế và cơ chế chuyển giao rõ ràng.
Hiện nay, nhiều đơn vị khác như Viettel, VNPT-IT... cũng đã tham gia phát triển các thiết bị không người lái cho nhiều mục đích, từ quân sự đến dân sự.
Ước tính của đơn vị nghiên cứu Markets & Data, thị trường UAV Việt Nam có quy mô 73 triệu USD năm 2023. Chỉ với riêng nông nghiệp, tại khu vực ĐBSCL đang có trên 3.000 drone hoạt động phục vụ cho 1,5 triệu ha. Thị trường UAV và robot nông nghiệp được dự báo đạt 363,7 triệu USD vào năm 2030.
Gỡ khó cho kinh tế tầm thấp để bay
Tại Việt Nam, công nghệ thiết bị bay không người lái (UAV) được xếp vào nhóm công nghệ hàng không - vũ trụ, là một trong 11 nhóm công nghệ chiến lược Việt Nam đặt mục tiêu làm chủ. Bộ KH&CN cũng cho biết sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh, đưa Việt Nam trở thành trung tâm sáng tạo, sản xuất UAV hàng đầu khu vực, góp phần phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu này, "người trong cuộc" cho rằng cần tháo gỡ những vướng mắc để tạo "đường băng" phát triển cho ngành.
Ông Trương Gia Bình chia sẻ về cuộc trao đổi với Cố vấn trưởng của Chính phủ Nhật Bản. Qua đó được biết quốc gia này rất muốn hợp tác với Việt Nam về kinh tế tầm thấp nhưng gặp nhiều khó khăn do thiếu thể chế, quy định phức tạp và khó xin phép.
"Cái vướng nhất bây giờ là chúng ta đang trống vắng hoàn toàn quy định kinh doanh loại hình này", ông Bình nói.
Theo Chủ tịch FPT, Việt Nam hiện thiếu các quy chuẩn, quy phạm, cũng như không có chứng chỉ, xuất xứ, giấy phép, điều kiện kinh doanh về UAV. Đồng thời, Việt Nam cũng chưa có cơ chế áp dụng thử nghiệm (sandbox) và các quy định hợp tác kinh doanh với nhà đầu tư nước ngoài.
Ông Bình kỳ vọng TP.HCM có thể nghiên cứu xây dựng một sandbox riêng cho TP về cả việc sản xuất lẫn ứng dụng UAV.
TS Nguyễn Hải Nguyên cho rằng rào cản lớn nhất hiện nay không nằm ở nhân lực, nguồn lực hay ý tưởng, mà ở giai đoạn từ nghiên cứu đến triển khai thực tế.
Theo TS Nguyên, UAV là một hệ thống phức hợp, nơi phần mềm điều khiển, cảm biến, phần cứng và môi trường tương tác chặt chẽ. Phần lớn các tiến bộ trong UAV không thể đạt được chỉ trong phòng thí nghiệm mà đòi hỏi nhiều giờ bay thử thực địa trong các điều kiện và kịch bản vận hành khác nhau.
Khi việc thử nghiệm bị hạn chế hoặc thủ tục xin phép bay thử quá phức tạp, chu trình "thiết kế - thử nghiệm - cải tiến" bị kéo dài. Điều này làm chậm đáng kể tốc độ đổi mới công nghệ và năng lực cạnh tranh. Khoảng cách giữa đại học và doanh nghiệp cũng xuất phát từ điểm này.
"Nếu thiếu các testbed (nền tảng thử nghiệm thực tế) và sandbox pháp lý cho phép đồng thử nghiệm - nơi nhà nghiên cứu và doanh nghiệp cùng làm việc và chia sẻ rủi ro, rất khó để kết nối nghiên cứu với sản xuất và dịch vụ UAV quy mô lớn. Nhìn ra quốc tế, các quốc gia thành công với UAV như Hoa Kỳ, Anh, Pháp... đều coi thử nghiệm là một phần cốt lõi của chiến lược phát triển", TS Nguyên nói.
Để drone cất cánh
Các doanh nghiệp, chuyên gia bày tỏ chỉ khi gỡ rào cản thì UAV Make in Vietnam mới thỏa sức cất cánh. Về thể chế, theo TS Nguyễn Hải Nguyên, trong bối cảnh sửa đổi Luật Hàng không dân dụng, việc hoàn thiện hành lang pháp lý cho UAV là hết sức cấp bách, đặc biệt là việc đánh giá đúng vai trò của "không gian tầm thấp".
"Từ góc nhìn nghiên cứu, đây là một miền hoạt động mới, gắn trực tiếp với đô thị, hạ tầng và con người. Cần được quản lý theo rủi ro và kịch bản vận hành thay vì chỉ dựa trên trọng lượng hay chủng loại UAV", TS Nguyên phân tích.
Ông Nguyên dẫn chứng cách tiếp cận của châu Âu với mô hình Open - Specific - Certified. Cụ thể, mở cho nhóm hoạt động có rủi ro thấp (Open); yêu cầu kịch bản cụ thể cho nhóm có rủi ro trung bình (Specific) và đòi hỏi chứng nhận khắt khe cho nhóm có rủi ro cao (Certified).
Quan trọng hơn, TS Nguyên đề xuất cần thiết lập sandbox pháp lý cho nghiên cứu và thử nghiệm. Điều này cho phép các trường đại học và doanh nghiệp vừa và nhỏ thử nghiệm có kiểm soát, tích lũy dữ liệu an toàn để cải tiến công nghệ nhanh hơn.
Về mặt thương mại, ông Lương Quốc Việt lại bày tỏ mong muốn: "Với một sản phẩm UAV đã chứng minh vượt tầm thế giới thì tôi có kiến nghị TP.HCM nên là một trong những người mua trong nước đầu tiên để ứng dụng trong nhiều công tác cứu nạn cứu hộ, phòng cháy chữa cháy...".
Liên minh Kinh tế tầm thấp Việt Nam (LAEP) vừa ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược với Hiệp hội UAV Nhật Bản (JUIDA), mở ra hướng phát triển mới trong lĩnh vực giao thông vận tải thế hệ mới. Đặc biệt là các ứng dụng UAV, drone và hệ sinh thái công nghệ liên quan.
Thỏa thuận xoay quanh ba trụ cột chính: Đầu tiên là chia sẻ kinh nghiệm xây dựng thể chế, khung pháp lý và tiêu chuẩn quốc tế cho lĩnh vực UAV và giao thông thông minh. Thứ hai là thúc đẩy kết nối doanh nghiệp hai nước để giao lưu, tìm kiếm cơ hội hợp tác kinh doanh, phát triển sản phẩm và mở rộng thị trường. Thứ ba, hai bên sẽ hợp tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực theo chuẩn quốc tế.