Ngày 22-5, TAND TP Cần Thơ xử phúc thẩm đã bác kháng nghị của VKS cùng cấp, bác kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, y án sơ thẩm, tuyên phạt Nguyễn Đức Thắng năm năm tù về tội chứa mại dâm. Vấn đề pháp lý thú vị trong vụ này là yếu tố “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” được coi là một hay hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Chứa mại dâm tại quán nước
Bị cáo Thắng (ngụ quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ) mở quán nước tại nhà trước ngày bị bắt khoảng bốn tháng nhưng không bán liên tục. Trong thời gian mở quán thì Thắng trực tiếp hỏi khách có nhu cầu mua dâm không. Nếu khách đồng ý thì Thắng thỏa thuận giá cho một lần mua dâm từ 150.000 đến 200.000 đồng. Sau đó, Thắng gọi điện thoại cho gái bán dâm đến quán của mình để gặp khách.
Để thuận tiện cho việc tổ chức mại dâm, Thắng xây hai phòng ở phía sau nhà mình để làm nơi kín đáo. Mỗi lần bán dâm, gái bán dâm phải đưa lại tiền môi giới cho Thắng 70.000-80.000 đồng.
Khoảng 19 giờ 30 ngày 22-9-2016, lực lượng chức năng quận Thốt Nốt kiểm tra đã bắt quả tang hai cặp nam nữ đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại hai phòng phía sau quán. Thắng bị mời về công an làm việc, sau đó bị khởi tố và truy tố về tội chứa mại dâm theo khoản 2 Điều 254 BLHS (có khung hình phạt 5-15 năm tù). Quá trình điều tra Thắng thừa nhận hành vi của mình.
Ngày 28-2, TAND quận Thốt Nốt xử sơ thẩm. Tại tòa sơ thẩm, VKS đề nghị tòa áp dụng Điều 47 BLHS để phạt bị cáo dưới khung truy tố với mức án từ hai năm đến hai năm sáu tháng tù, phạt bổ sung 3-5 triệu đồng. Tòa sơ thẩm xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã nộp tiền thu lợi bất chính xong, bản thân đang bị bệnh, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Nhưng tòa chỉ áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trên để cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt chứ không thể áp dụng Điều 47 để xử dưới khung. Từ đó tòa tuyên phạt bị cáo năm năm tù về tội danh trên. Bị cáo Thắng kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Bị cáo Thắng tại phiên tòa phúc thẩm. Ảnh: N.NAM
Chỉ là mức độ khác nhau
Cũng sau phiên xử, viện trưởng VKSND quận Thốt Nốt kháng nghị đề nghị cấp phúc thẩm xét xử theo hướng giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Kháng nghị cho rằng mức án trên là quá nghiêm khắc nên đề nghị tòa phúc thẩm áp dụng quy định có lợi cho bị cáo theo Nghị quyết 109 (về việc thi hành BLHS 2015) của Quốc hội.
Lý do là bị cáo Thắng đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, đây là hai tình tiết giảm nhẹ nhưng cấp sơ thẩm chỉ tính là một. VKS giữ quan điểm cho rằng cần áp dụng Điều 47 BLHS để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo điểm c khoản 2 Điều 254 BLHS.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND TP Cần Thơ giữ quyền công tố cũng đồng tình với kháng nghị của VKSND cấp dưới. Sau khi luận tội, vị này đề nghị tòa phạt Thắng bốn năm tù (nhẹ hơn một năm so với án sơ thẩm).
Tuy nhiên, HĐXX cấp phúc thẩm nhận định bị cáo Thắng phạm tội nhiều lần, có nhân thân xấu vì năm 2007 bị đưa vào đối tượng sưu tra do có biểu hiện chứa mại dâm. Mặt khác, theo BLHS hiện hành thì không có quy định pháp luật hay văn bản hướng dẫn nào coi thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải là hai tình tiết giảm nhẹ.
HĐXX cho rằng hai tình tiết trên là tương đồng, chỉ có điều thành khẩn khai báo là mức độ khác của ăn năn hối cải. Cấp tòa sơ thẩm xử phạt bị cáo bằng mức khởi điểm của khung hình phạt là có căn cứ và đúng luật. Do đó, tòa không chấp nhận kháng nghị của VKS quận, bác đề nghị của kiểm sát viên tại tòa, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
BLHS 2015 coi là hai tình tiết Theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 (đang bị tạm dừng thi hành) thì các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự gồm: Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải. Trong khi đó, điểm p khoản 1 Điều 47 BLHS hiện hành không có chữ “hoặc”: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các chuyên gia pháp lý cho rằng với việc thêm từ “hoặc” thì quy định tại BLHS 2015 cho phép coi đây là hai tình tiết giảm nhẹ nếu người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải. Như vậy, trong vụ án này nếu áp dụng BLHS 2015 thì tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố nếu bị cáo có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51. |