Mới đây, TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã xét xử phúc thẩm vụ tranh chấp về xác định cha cho con giữa chị H. và anh N. Theo đó, HĐXX đã tuyên không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh N., giữ nguyên án sơ thẩm của TAND TP Vũng Tàu xác định cháu Q. là con chung của chị H. và anh N.
Hứa mà không làm
Trong đơn khởi kiện, chị H. trình bày năm 2012 chị và anh N. quen biết nhau. Sau thời gian tìm hiểu hai bên nảy sinh tình cảm và chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2014 tại nhà của chị H.
Trong quá trình sống chung, anh N. chia sẻ rằng vợ chồng anh sống với nhau không hạnh phúc, không có sự đồng cảm. Từ đó anh N. nhiều lần hứa hẹn với chị H. là sẽ ly hôn với vợ và chung sống với chị.
Chị H. viết: “Do tin tưởng vào anh N., tin tưởng vào sự gắn bó lâu dài nên tôi đã hy sinh rất nhiều cho anh. Đến năm 2016, chị H. có bầu, biết tin này anh N. hứa sẽ về chung sống và có trách nhiệm với con chung của hai người”.
Thế rồi ngày 14-12-2016, chị H. sinh con trai và đặt tên con là Q. Lúc này chị H. phấn khởi liên lạc và thông báo cho anh N. biết con chung của họ đã chào đời. Ngoài ra, chị H. còn thông báo để anh N. có trách nhiệm trong việc đứng tên cha ruột trong giấy khai sinh cho cháu bé một cách chính thức. Thế nhưng bất ngờ anh N. chối bỏ trách nhiệm làm cha.
Vì thế chị H. đã làm đơn khởi kiện anh N. ra TAND TP Vũng Tàu vì cho rằng mình bị phụ bạc và mất hết niềm tin vào anh. Chị H. yêu cầu tòa xác định cháu Q. là con chung của chị H. và anh N. bằng một bản án.
Quá trình giải quyết vụ án, dù được tòa triệu tập nhiều lần nhưng anh N. vẫn vắng mặt. Ngày tòa mở phiên xử sơ thẩm anh cũng vắng mặt không lý do và cũng không có văn bản nêu ý kiến phản bác hay đồng tình với yêu cầu khởi kiện của chị H.
Vắng mặt nhưng kháng cáo
Trên cơ sở các chứng cứ do chị H. cung cấp, cuối cùng HĐXX sơ thẩm đã tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H.
Sau khi biết mình bị cấp sơ thẩm xử thua kiện, anh N. đã làm đơn kháng cáo. Anh yêu cầu tòa phúc thẩm hủy án sơ thẩm do ban hành trái với quy định của pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự. Về nội dung thì bản án chưa khách quan, không toàn diện, không đúng sự thật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của anh.
HĐXX tòa phúc thẩm nhận định anh N. kháng cáo cho rằng bản án sơ thẩm ban hành trái pháp luật nhưng không nêu được trái pháp luật nào, điều khoản nào của bộ luật nào. Ngoài ra, anh cũng không đưa ra được những quyền và lợi ích nào của anh bị xâm hại.
Tại phiên tòa, ông V. (đại diện theo ủy quyền của anh N.) cũng không đưa ra được chứng cứ nào chứng minh cho các yêu cầu kháng cáo. Vị đại diện này cũng không yêu cầu tòa giám định huyết thống, không thừa nhận hay từ chối cháu Q. là con chung của anh N. và chị H. Bản thên anh N. thì thừa nhận có thời gian yêu chị H. nhưng không chung sống như vợ chồng.
Theo tòa, chị H. khởi kiện yêu cầu xác định cháu Q. là con chung của hai người và đã nộp các chứng cứ là những bức ảnh, file ghi âm, lời khai người làm chứng để xác định quan hệ giữa hai bên.
Riêng anh N. không hợp tác, cấp sơ thẩm đã tống đạt hợp lệ, cung cấp địa chỉ đúng nhưng anh không tham gia phiên tòa. Vì thế cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H. là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của anh N. không đưa ra được chứng cứ mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của anh N.