Ngày 12-9, TAND TP.HCM đã mở phiên xét xử phúc thẩm vụ án dân sự về việc tranh chấp đòi tài sản. Nguyên đơn là ông Nguyễn Quang Tấn khởi kiện bà Trà Ngọc Hằng đòi bồi thường số tiền 2,5 tỉ đồng. Phiên phúc thẩm được mở do bị đơn kháng cáo, đề nghị hủy bản án sơ thẩm.
Trước đó, phiên tòa phúc thẩm đã hoãn hai lần. Tại phiên tòa hôm nay, luật sư bị đơn vắng mặt không có lý do. Tại tòa chỉ có người đại diện theo ủy quyền của bà Trà Ngọc Hằng.
Tại tòa, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị HĐXX hủy bản án sơ thẩm do cấp sơ thẩm không triệu tập những người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Phía bị đơn cho rằng, bà Hằng là người ký hợp đồng để thế chấp 9 thửa đất và vay ngân hàng, chứ không vay mượn với nguyên đơn, nên phía nguyên đơn không thể khởi kiện.
Không đồng ý với ý kiến của bị đơn, LS phía nguyên đơn cho rằng, ông Tấn và bà Hằng đã thỏa thuận việc vay số tiền 13,2 tỉ đồng. Mỗi bên sẽ tự trả lãi suất với số tiền tương ứng. Và sự việc này đã được lập vi bằng, thể hiện trong hồ sơ vụ án ở cấp sơ thẩm.
Đáng chú ý, phía bị đơn bất ngờ phủ nhận toàn bộ lời khai tại phiên sơ thẩm.
HĐXX phúc thẩm lưu ý phía bị đơn, tại phiên tòa sơ thẩm, ông Tấn và bà Hằng đã xác nhận lời khai về việc ngân hàng cho bà Hằng vay 13,2 tỉ đồng. Trong đó, bà Hằng nhận số tiền vay gốc là 2,5 tỉ đồng; ông Tấn nhận 10,7 tỉ đồng; xác nhận ông Tấn tiến hành các thủ tục để bà Hằng hoàn thành nghĩa vụ tất toán khoản vay 13,2 tỉ đồng.
Khi được HĐXX hỏi lý do, phía bị đơn cho rằng, quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, bà Hằng bị hoảng loạn tinh thần, không nhớ rõ các tình tiết. Phía bị đơn đề nghị HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
HĐXX phúc thẩm quyết định nghị án kéo dài và sẽ tuyên án vào ngày 18-12.
Bản án sơ thẩm của TAND TP. Thủ Đức tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả cho ông Tấn 2,5 tỉ đồng.
Theo hồ sơ, năm 2020, bà Hằng liên hệ ông Tấn để vay tiền kinh doanh. Ông Tấn giao cho bà Hằng miếng đất để làm tài sản đảm bảo cho khoản vay ngân hàng tổng cộng 13,2 tỉ đồng. Sau khi giải ngân, bà Hằng nhận số tiền vay gốc là 2,5 tỉ đồng, ông Tấn nhận số tiền vay gốc là 10,7 tỉ đồng.
Hai bên thỏa thuận cùng gom tiền lãi đóng ngân hàng nhưng sau một thời gian thì bà Hằng không đóng lãi như thỏa thuận, dẫn đến kiện tụng.
Quá trình giải quyết vụ án, bà Hằng giao nộp vi bằng là chứng cứ chứng minh cho lời trình bày là giữa ông Tấn và bà Hằng có thỏa thuận, ông Tấn hứa xử lý nợ xấu và mua xe cho bà Hằng.
Cụ thể, trường hợp ông Tấn không đóng lãi được cho ngân hàng khiến bà Hằng nợ xấu tại ngân hàng thì bà Hằng không trả nợ, không trả lãi đối với số tiền 2,5 tỉ đồng.
HĐXX xem xét toàn bộ nội dung vi bằng nêu trên thì không nhận thấy thỏa thuận như bà Hằng trình bày.
HĐXX sơ thẩm nhận định, về khoản vay, cả hai xác nhận ông Tấn làm thủ tục để bà Hằng hợp thức hóa khoản vay 13,2 tỉ đồng với ngân hàng. Căn cứ Điều 91, 92 BLTTDS, Điều 166 BLDS, HĐXX xác định ông Tấn là người thực tế trả khoản nợ vay 13,2 tỉ đồng cho ngân hàng, bà Hằng có nhận 2,5 tỉ đồng trong khoản vay 13,2 tỉ đồng và ông Tấn có quyền đòi lại số tiền 2,5 tỉ đồng.