Luật sư (LS) của bà Hứa Thị Phấn đề cập đến Quyết định ngày 10-12-2018 về vệc giải quyết đơn kháng cáo quá hạn của bà Phấn (bà Phấn kháng cáo xem xét lại việc án sơ thẩm buộc bà phải hoàn trả cho CB số tiền 600 tỉ đồng). Tuy nhiên, HĐXX cho rằng đơn kháng cáo của bà Phấn đã bị bác nên không xem xét tại phiên tòa, nếu không đồng ý, bà Phấn có quyền khiếu nại quyết định giải quyết kháng cáo này.
Luật sư: "Thu hồi dư 2.128 tỉ đồng"
Sau đó, LS của bà Phấn đã chuyển sang vấn đề khác liên quan đến số tiền thu hồi. Theo LS, quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều xác định số tiền CB bị thiệt hại là 6.126 tỉ đồng nhưng bản án sơ thẩm lại thu hồi nhiều hơn số tiền bị thiệt hại là 2.128 tỉ đồng (làm tròn). Việc này là kết quả của việc thu hồi, buộc hoàn trả sai đối tượng, trong đó có việc buộc bà Phấn hoàn trả 600 tỉ đồng không đúng quy định pháp luật và chứng cứ, hồ sơ vụ án.
Không những vậy, bản án sơ thẩm còn tạo ra điều nghịch lý là số tiền 2.128 tỉ đồng thu hồi dư này là được tòa thu hồi giùm cho bị cáo Danh để Danh có tiền đảm bảo thi hành án phần nghĩa vụ dân sự trong cả giai đoạn 1, giai đoạn 2 của vụ án và các nghĩa vụ dân sự khác của bị cáo Danh?
Cạnh đó, LS bà Phấn nói các ý kiến cho rằng nguyên nhân xảy ra vụ án là do bà Phấn là không đúng, xét về mối quan hệ nhân quả là không phù hợp, không phản ánh đúng bản chất vụ án. Theo LS, vào thời điểm khởi tố vụ án, vốn chủ sở hữu của CB âm hơn 18.000 tỉ đồng. Hậu quả đó có nguyên nhân chủ yếu là do hành vi phạm tội của Danh và đồng phạm gây ra gồm các hành vi cố ý làm trái trong việc lập hồ sơ khống về việc nâng cấp hệ thống, hành vi cố ý làm trái trong việc rút tiền của CB, việc rút tiền không có chữ ký của chủ tài khoản, không có hồ sơ vay….
Về việc đề nghị thu hồi 3.600 tỉ đồng (tiền trả nợ thay cho bà Phấn), LS nói không liên quan đến giai đoạn 2 này, số tiền này do Danh gửi ngân hàng để tái cơ cấu nên không có cơ sở thu hồi.
Thu hồi và trả lại cho bị cáo là sai?
Đối đáp lại các ý kiến của các LS, VKS cho rằng nhóm đầu tư mới phải cam kết tái cơ cấu ngân hàng trên cơ sở năng lực tài chính. NHNN đã có văn bản cam kết VNCB tăng vốn điều lệ theo phương án chào bán cổ phần, trong đó chỉ đạo việc tăng vốn điều lệ phải đảm bảo không dùng vốn ủy thác, vốn huy động, vốn vay của các tổ chức cá nhân mua cổ phần của VNCB. Do đó, không thể xem việc NHNN yêu cầu nhóm đầu tư mới tăng vốn điều lệ theo cam kết là chấp nhận việc Danh được sử dụng tiền cho vay do chính VNCB bảo lãnh để tăng vốn điều lệ.
Số tiền 4.500 tỉ đồng phần lớn từ quan hệ tín dụng trái pháp luật, số tiền này không phải là tiền của cá nhân Danh có năng lực tài chính đưa vào mà có nguồn gốc bất hợp pháp. Án sơ thẩm cho rằng số tiền này là của Danh khi chỉ căn cứ vào việc các cá nhân góp vốn có tiền mà không xem xét nguồn gốc số tiền là không có cơ sở.
Số tiền tăng vốn điều lệ sau khi chuyển vào VNCB đã hòa chung vào nguồn tiền của VNCB và có cơ sở Danh là người chỉ đạo sử dụng số tiền 4.500 tỉ đồng. Án sơ thẩm thu hồi trả lại cho Danh trong khi Danh đã sử dụng và giờ được tuyên trả lại là Danh được hưởng hai lần, đồng nghĩa với việc nhà nước mất thêm 4.500 tỉ đồng.
Theo VKS, về vấn đề có phải là vật chứng của vụ án hay không có thể thấy án sơ thẩm nhận định có mâu thuẫn, không nhất quán. Cùng số tiền 2.371 tỉ đồng nhưng án sơ thẩm nhận định vừa là vật chứng do hành vi phạm tội của Danh và đồng phạm vừa là tài sản của cá nhân Danh. Mặt khác, theo VKS, số tiền 4.500 tỉ đồng không phải là công cụ, phương tiện phạm tội, không phải là đối tượng phạm tội nên không có cơ sở để thu hồi.
Về các ý kiến về kháng nghị không cho bốn bị cáo hưởng án treo, sau khi các bị cáo nêu về hoàn cảnh gia đình, các tình tiết giảm nhẹ, VKS rất đồng cảm với hoàn cảnh các bị cáo. Mặc dù các bị cáo phạm tội, không hưởng lợi nhưng các bị cáo đã thành niên buộc phải hiểu những hành vi của mình phải chịu trách nhiệm. VKS xác định các bị cáo không đủ điều kiện hưởng án treo đã nêu rõ trong kháng nghị nhưng không có nghĩa VKS đề nghị cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội vì theo quy định ngoài án treo còn có các hình phạt khác, HĐXX sẽ cân nhắc.
Về các ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt, hưởng cải tạo không giam giữ, hay án treo, VKS cho rằng đã trình bày, hậu quả của vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, các bị cáo phải liên đới chịu trách nhiệm, hình phạt cấp sơ thẩm tuyên là tương xứng với hành vi phạm tội nên không có cơ sở xem xét.
Các bị cáo tại tòa. Ảnh: YC
Phạm Công Danh: "Dám làm dám chịu"
Sau khi VKS phát biểu, bị cáo Phạm Công Danh xin có ý kiến. Bị cáo Danh cảm ơn HĐXX đã cho tất cả LS và các bị cáo có cơ hội trình bày để làm rõ sự thật vụ án. Đối với ý kiến về số tiền 194 tỉ đồng, theo Danh tất cả khoản tiền có người nhận, án sơ thẩm đã ghi nhận, sự việc đã rất rõ. Ông cho rằng mình đưa ra khoản tiền mặc dù không nằm trong phạm vi xét xử nhưng đây là cơ hội cuối cùng, thậm chí một số tài sản của ông cũng không phải vật chứng, không liên quan tới vụ án nhưng vẫn bị thu hồi. Trong khi đó, vợ con ông đi ở nhà thuê nhưng ông cam chịu bởi lẽ dám làm thì dám chịu.
Cạnh đó, theo bị cáo Danh, số tiền hơn 3.600 tỉ đồng (tiền trả cho bà Phấn) không nằm trong vụ án này nhưng đây là số tiền thật, có chứng từ, hoàn toàn có cơ sở để thu hồi. Và nếu thu hồi được thì ông và các bị cáo sẽ được giảm nhẹ hình phạt, bởi mục đích cuối cùng trong các vụ án kinh tế là thu hồi được tài sản, khắc phục hậu quả.
Đối đáp, LS của Danh cho rằng nếu VKS cho rằng số tiền 4.500 tỉ đồng không phải là của Danh mà có từ các giao dịch bất hợp pháp thì đề nghị VKS nêu hướng xử lý. Nếu trái pháp luật thì giữ nguyên hiện trạng coi như là bất hợp pháp mà VNCB có quyền thụ hưởng hay truy tận gốc để quay trở lại trả về đúng dòng tiền do hành vi vi phạm?
LS của Danh còn cho rằng CB không tất toán chờ kết quả của CQĐT chứ không có câu chữ nào nói là hành vi góp vốn này bất hợp pháp...