Bệnh dại là bệnh nhiễm virus cấp tính của hệ thần kinh trung ương, lây từ động vật sang người qua chất tiết, phổ biến nhất là nước bọt chứa virus dại. Phần lớn các trường hợp phơi nhiễm xảy ra qua vết cắn, vết liếm của động vật mắc bệnh dại; một số ít có thể lây qua tiếp xúc đặc biệt như hít phải khí dung hoặc ghép mô, cơ quan bị nhiễm virus. Khi bệnh đã lên cơn, cả người và động vật gần như tử vong 100%.
Ổ chứa virus dại trong tự nhiên chủ yếu là các loài động vật có vú như chó, mèo, dơi, cáo… Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm thế giới ghi nhận khoảng 59.000 ca tử vong do bệnh dại, đa số xảy ra tại các quốc gia nghèo, nơi việc kiểm soát bệnh dại trên chó, mèo còn hạn chế.
Các giai đoạn của bệnh dại
Bệnh dại diễn tiến qua nhiều giai đoạn.
Giai đoạn ủ bệnh thường kéo dài trung bình 20–60 ngày, nhưng có thể ngắn chỉ vài ngày hoặc kéo dài nhiều năm; y văn ghi nhận có trường hợp ủ bệnh đến 19 năm. Thời gian ủ bệnh thường ngắn hơn nếu vết thương ở vùng đầu, mặt hoặc lây qua ghép giác mạc.
Giai đoạn khởi phát kéo dài khoảng 2–10 ngày, với các triệu chứng như sợ hãi, đau đầu, sốt, mệt mỏi, khó chịu, cảm giác tê và đau tại vị trí vết thương.
Giai đoạn toàn phát (viêm não) thường biểu hiện mất ngủ, kích thích mạnh với ánh sáng, tiếng động, gió nhẹ; kèm rối loạn thần kinh thực vật như giãn đồng tử, tăng tiết nước bọt, vã mồ hôi, tụt huyết áp.
Bệnh có hai thể: Thể hung dữ (chiếm khoảng 80%) và thể liệt hướng lên (hội chứng Landry). Giai đoạn này thường kéo dài 2–6 ngày, người bệnh tử vong chủ yếu do liệt cơ hô hấp.
Chẩn đoán, điều trị bệnh dại
Chẩn đoán sơ bộ dựa vào triệu chứng lâm sàng điển hình như sợ nước, sợ gió, sợ ánh sáng và yếu tố dịch tễ có tiếp xúc với động vật nghi dại.
Chẩn đoán xác định được thực hiện bằng các xét nghiệm chuyên sâu như miễn dịch huỳnh quang trực tiếp (IFA) từ mô não, phân lập virus hoặc phát hiện RNA virus bằng kỹ thuật PCR từ nước bọt, dịch não tủy, nước tiểu hoặc mô sinh thiết (não, da).
Hiện nay, chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu đối với bệnh dại. Khi bệnh đã khởi phát, việc điều trị chủ yếu mang tính hỗ trợ và chăm sóc giảm nhẹ như thở oxy, thở máy, truyền dịch, dùng thuốc vận mạch, an thần, giảm đau và chống co giật.
Phòng ngừa bệnh dại – yếu tố then chốt
Phòng bệnh dại cần phối hợp nhiều biện pháp: Cảnh giác với động vật có nguy cơ; tiêm phòng dại cho chó, mèo; tiêm phòng trước phơi nhiễm cho nhóm nguy cơ cao; và đặc biệt là xử trí đúng sau phơi nhiễm.
Xử trí vết thương ngay sau khi bị cắn, liếm
- Rửa ngay vết thương dưới vòi nước chảy trong khoảng 15 phút, có thể dùng xà phòng, loại bỏ dị vật và mô dập nát.
- Sát trùng bằng cồn 70° hoặc dung dịch iode, không khâu kín da. Nếu bắt buộc khâu, cần tiêm huyết thanh kháng dại tại vết thương và trì hoãn khâu ít nhất vài giờ.
- Với vết thương sâu, chảy máu, ở vùng đầu, mặt, cổ hoặc bộ phận sinh dục, cần tiêm huyết thanh kháng dại sâu và xung quanh vết thương.
- Tiêm phòng uốn ván và dùng kháng sinh nếu có chỉ định.
Tiêm huyết thanh kháng dại
- Chỉ định cho trường hợp có một hoặc nhiều vết cắn xuyên thấu da hoặc liếm trên da bị tổn thương; dính nước bọt trên niêm mạc (liếm); các tiếp xúc với dơi (và nhóm có vết cắn trên da trần, chưa xuyên thấu da; vết xây xát nhỏ trên da không chảy máu ở người suy giảm miễn dịch).
- Liều huyết thanh kháng dại từ người: 20 IU/kg; từ ngựa: 40 IU/kg.
- Có thể trì hoãn tối đa 7 ngày nếu chưa tiêm cùng mũi vắc-xin đầu tiên.
- Không chỉ định nếu người bệnh đã được tiêm phòng dại đầy đủ trước đó.
Tiêm vaccine kháng dại
- Áp dụng cho trường hợp có vết cắn trên da trần, chưa xuyên thấu da; vết xây xát nhỏ trên da không chảy máu; có một hoặc nhiều vết cắn xuyên thấu da hoặc liếm trên da bị tổn thương; dính nước bọt trên niêm mạc (liếm); các tiếp xúc với dơi.
- Người chưa có miễn dịch: tiêm bắp theo phác đồ 4 liều hoặc 5 liều.
- Người đã tiêm phòng đầy đủ trước đó: chỉ cần tiêm nhắc 2 liều (ngày 0 và 3) hoặc tiêm trong da theo phác đồ rút gọn.
Bệnh dại là bệnh nguy hiểm nhưng hoàn toàn có thể phòng ngừa nếu xử trí đúng và kịp thời ngay sau phơi nhiễm. Việc chủ động tiêm phòng và không chủ quan trước bất kỳ vết cắn hay vết liếm nào của động vật nghi dại là yếu tố quyết định bảo vệ tính mạng.
TS.BS DƯƠNG BÍCH THỦY, khoa Cấp cứu Hồi sức tích cực chống độc người lớn (Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP.HCM).