Cố tình giấu địa chỉ để né ly hôn nhưng không được

Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng êm ấm, hạnh phúc, sinh được hai con chung nhưng sau đó anh Đ. mê bài bạc rồi về nhà đánh đập vợ... Do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên tháng 2-2017, chị N. đã mang con về nhà cha mẹ ruột sinh sống, đồng thời nộp đơn xin ly hôn tại TAND huyện Phú Hòa.

Quá trình thụ lý, giải quyết đơn xin ly hôn của chị N. TAND huyện nhiều lần triệu tập nhưng anh Đ. đều vắng mặt. Qua xác minh tòa biết anh Đ. không có mặt ở địa phương, cả chị N. cũng không biết chồng đang ở đâu. Vì thế, chị N. đã rút đơn khởi kiện để xác định địa chỉ của anh Đ. Hai tháng sau khi thụ lý, TAND huyện đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.

Đến tháng 6, chị N. lần thứ hai gửi đơn xin ly hôn. Tuy nhiên, qua xác minh anh Đ. vẫn vắng mặt tại địa phương nên chị N. lại rút đơn khởi kiện và TAND huyện lần thứ hai phải ra quyết định đình chỉ vụ án.

Tháng 10, chị N. lại gửi đơn xin ly hôn chồng và yêu cầu tòa án xem xét, giải quyết xử cho chị ly hôn theo quy định mới. Cụ thể là điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04 ngày 5-5-2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS năm 2015 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án (có hiệu lực từ ngày 1-7-2017).

Điều luật này hướng dẫn nếu sau khi thụ lý vụ án, tòa án không tống đạt được thông báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn không còn cư trú tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp thì giải quyết như sau: Trường hợp trong đơn khởi kiện người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện thì được coi là đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở. Trường hợp người bị kiện thay đổi nơi cư trú mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn.

Theo hướng dẫn này, TAND huyện Phú Hòa đã thụ lý giải quyết vụ án và tống đạt hợp lệ cho anh Đ. theo quy định của pháp luật. Sau đó tòa đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai chứng cứ, hòa giải không thành…

Mới đây tòa án đã đưa vụ án ra xét xử, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N. được ly hôn với anh Đ. và được quyền nuôi hai con chung. Tòa cũng yêu cầu anh Đ. có trách nhiệm cấp dưỡng 1,3 triệu đồng/tháng cho hai con.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm