Vàng, từ lâu được coi là nơi lưu trữ giá trị không sinh lời, đang có thêm một vai trò mới trong danh mục đầu tư của giới siêu giàu là nguồn thu nhập thụ động. Theo đó, trong bối cảnh giá vàng duy trì ở mức cao kéo dài, các nhà đầu tư giàu có ở nước ngoài đang cho thuê những thỏi vàng vật chất của họ cho các bên tham gia thị trường như công ty tinh chế và nhà kim hoàn.
Biến vàng thành nguồn thu nhập thụ động
Do giá vàng quá cao, việc các tổ chức này sử dụng khoản vay truyền thống từ ngân hàng để mua và tích trữ vàng làm hàng tồn kho trở nên rất tốn kém. Hình thức thuê vàng cho phép doanh nghiệp có nguyên liệu sản xuất mà không cần bỏ ra lượng tiền mặt lớn, giải quyết bài toán chi phí tài chính. Ngược lại, chủ sở hữu vàng nhận được một khoản lợi tức ổn định.
Theo giới phân tích, cho vay vàng là cơ chế tài chính phức tạp nhưng ngày càng phổ biến trong giới tổ chức và nhà đầu tư giàu có. Khác với vay tiền mặt và trả lãi bằng tiền, trong giao dịch này, một bên cho vay vàng vật chất và nhận lại lãi suất tính trên số vàng đó.
Cơ chế này biến vàng từ tài sản "chết" thành công cụ sinh lời. Người đi vay (công ty khai thác, tinh chế, ngân hàng đầu tư) sử dụng vàng để phục vụ thương mại và phòng ngừa rủi ro, trong khi người cho vay nhận thu nhập thụ động.
Chuyên gia tài chính Trần Đình Phương nhận định, giá vàng tăng vọt và duy trì ở mức cao kỷ lục trong phần lớn năm 2025 đã gây khó khăn lớn về dòng tiền cho các công ty cần trữ vàng vật chất làm hàng tồn kho. Các công ty tinh chế và sản xuất đồ trang sức giờ đây gặp nhiều gánh nặng hơn khi phải vay tiền mặt từ ngân hàng để mua và tích trữ vàng cho sản xuất. Do đó, hình thức cho thuê vàng đã trở nên vô cùng hấp dẫn đối với họ.
Các hợp đồng cho thuê vàng này là các thỏa thuận ngắn hạn hoặc trung hạn. Theo đó, chủ sở hữu sẽ cho vay vàng và nhận lại một khoản lợi tức. Các thỏa thuận này thường được bảo đảm bằng tài sản thế chấp vật chất và có chu kỳ đáo hạn ngắn.
"Mặc dù hoạt động cho thuê vàng đã được các tổ chức lớn thực hiện từ nhiều thập kỷ, nhưng hiện tại, nó đang trở nên phổ biến và được áp dụng mạnh mẽ hơn trong lĩnh vực quản lý tài sản cá nhân giàu có", ông Phương nhận định.
Cho thuê vàng lãi suất 5%/năm
Nhiều doanh nghiệp thuê vàng thay vì vay vốn ngân hàng để mua vàng nguyên liệu phục vụ chế tác sản phẩm trang sức. Mô hình cho thuê vàng vận hành gần giống hoạt động cho vay của các ngân hàng, chỉ khác ở chỗ đơn vị vay, trả là số ounce vàng thay vì tiền mặt.
Chia sẻ trên CNBC, ông Gaurav Mathur, nhà sáng lập SafeGold cho biết lượng yêu cầu cho thuê vàng tăng đột biến. SafeGold hiện đang cung cấp mức lãi suất 2%/năm, cho các hợp đồng thuê vàng có bảo đảm và 4%/năm cho các hợp đồng thuê vàng không có bảo đảm. Hồi đầu năm nay, mức lãi suất có thời điểm đã tăng lần lượt lên mức 3%/năm và 5%/năm.
Không chỉ có SafeGold, thông qua nền tảng Monetary Metals tại Mỹ cũng ghi nhận nhu cầu cho thuê vàng tăng vọt. Cơ chế này giúp các doanh nghiệp trang sức, tinh luyện giải quyết hai bài toán đó là không phải vay vốn lưu động và chịu rủi ro biến động giá trong thời gian nắm giữ. Sau khi chế tác ra các sản phẩm trang sức, họ bán chúng theo thời giá. Đến kỳ hạn, doanh nghiệp chỉ cần mua đúng lượng vàng đã thuê theo giá thị trường để trả, kèm theo "lãi suất bằng vàng".
Tuy vậy cho thuê vàng cũng phải đối mặt với những rủi ro nhất định. Ông John Reade, nhà phân tích của Hội đồng Vàng Thế giới cảnh báo, rủi ro lớn nhất là khi người vay không trả được vàng, hoặc trả vàng không đúng độ tinh khiết ban đầu.
Tiềm ẩn rủi ro mất vốn
Tuy nhiên, giới chuyên gia khuyến cáo nhà đầu tư cần nhận thức rõ các rủi ro đáng kể đi kèm.
Ông Nguyễn Văn Dưng, Chủ tịch Hội Mỹ nghệ kim hoàn đá quý TP.HCM, cảnh báo rủi ro lớn nhất là bên đi vay mất khả năng chi trả hoặc phá sản. Khi đó, nhà đầu tư có thể mất toàn bộ số vàng đã cho vay.
"Khi vàng được mang đi cho vay, nó không còn nằm trong kho của nhà đầu tư. Điều này khiến họ không thể bán ngay lập tức để chốt lời khi giá vàng tăng đột biến", ông Dưng phân tích.
Dù các hợp đồng thường có tài sản thế chấp, quá trình thu hồi trong trường hợp vỡ nợ hoặc tranh chấp pháp lý có thể kéo dài và tốn kém. Ngoài ra, lãi suất cho vay vàng thường thấp. Nếu giá vàng giảm mạnh, khoản lỗ về giá trị tài sản có thể vượt xa khoản lãi thu được.
Theo giới phân tích, trước đây, các ngân hàng thương mại Việt được phép huy động và cho vay vàng, và hoạt động này đã trở thành một phần đáng kể của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nhận thấy rằng hoạt động này tạo ra rủi ro thanh khoản lớn và có thể gây bất ổn cho hệ thống tài chính quốc gia.
Do đó, NHNN đã ban hành quy định cấm huy động vốn bằng vàng và chấm dứt các khoản cho vay mới, yêu cầu các tổ chức tín dụng tất toán các hợp đồng cũ.
Tuy vậy, theo ông Phương, thay vì cấm, tại thị trường quốc tế, để kiểm soát rủi ro xu hướng cho thuê vàng đang gia tăng này, một loạt các nền tảng tài chính mới đã xuất hiện. Mục đích của chúng là làm cho quy trình cho thuê vàng trở nên đơn giản và an toàn hơn.
Các nền tảng này cung cấp các dịch vụ bảo mật quan trọng như bảo hiểm, kiểm toán độc lập và công nghệ theo dõi kỹ thuật số để giảm nguy cơ gian lận và tăng tính minh bạch. Nhờ đó, chúng tạo ra một môi trường giao dịch đáng tin cậy và dễ tiếp cận hơn. Điều này đặc biệt thu hút các khách hàng cá nhân giàu có, những người thường không có đủ cơ sở vật chất và hệ thống để trực tiếp cho các tổ chức khác vay vàng.
Chẳng hạn, các dịch vụ lưu ký và lưu trữ tài sản kỹ thuật số hiện nay có thể theo dõi nguồn gốc của các thỏi vàng được cho thuê theo thời gian.
Sẽ sớm chấm dứt khoảng cách giá vàng
NHNN đang lấy ý kiến dự thảo nâng trạng thái vàng lên 5% vốn tự có và cho phép ngân hàng tham gia sâu hơn thị trường vàng. Việc nâng trạng thái vàng và cho phép các ngân hàng thương mại được sản xuất vàng miếng là bước đi đúng đắn của NHNN, thể hiện quyết tâm trong việc giải quyết những bất cập kéo dài của thị trường vàng, song, chính sách này cần có thời gian để phát huy hiệu quả.
Về mặt tích cực, việc nâng trạng thái vàng của ngân hàng thương mại là một động thái quan trọng nhằm tăng nguồn cung hợp pháp cho thị trường. Trong hơn 10 năm qua, Việt Nam hầu như không nhập khẩu vàng miếng, dẫn đến tình trạng khan hiếm mang tính cấu trúc.
Khi cho phép các ngân hàng thương mại tham gia vào hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu vàng miếng, nguồn cung chính thức sẽ được bổ sung đáng kể, từ đó góp phần thu hẹp khoảng cách giá giữa trong nước và thế giới - một khoảng cách hiện đang ở mức rất cao, từ 13 - 20 triệu đồng/lượng. Điều này không chỉ giúp bình ổn giá cả mà còn tạo điều kiện cho người dân tiếp cận vàng với giá hợp lý hơn.
Việc đa dạng hóa kênh phân phối thông qua ngân hàng thương mại cũng sẽ phá vỡ tình trạng độc quyền thực tế mà một số doanh nghiệp lớn đang nắm giữ, qua đó tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thị trường chợ đen đang phát triển rất mạnh với giá vàng lên tới 170 triệu đồng/lượng và tình trạng vàng giả tràn lan gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Khi có thêm các ngân hàng thương mại tham gia với vai trò là những tổ chức tài chính lớn, uy tín và chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý, thị trường sẽ dần trở nên minh bạch hơn, hạn chế được các hành vi đầu cơ, thao túng giá.
Tuy nhiên, chính sách này cũng đối mặt với không ít thách thức. Trước hết, việc triển khai cần có thời gian đáng kể vì các ngân hàng thương mại phải xây dựng lại toàn bộ hạ tầng, quy trình nghiệp vụ liên quan đến vàng, một lĩnh vực mà họ đã rời xa trong nhiều năm qua.
Bên cạnh đó, cần phải có các quy định rất rõ ràng về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, cơ chế giám sát hoạt động để đảm bảo các ngân hàng không lạm dụng vai trò mới này. Một rủi ro tiềm ẩn nữa là nếu ngân hàng thương mại cũng tham gia vào hoạt động đầu cơ hoặc tạo ra nguồn cung không ổn định, thì thay vì giải quyết vấn đề, chúng ta lại tạo ra những bất ổn mới cho thị trường.
Nhìn chung, đây là giải pháp dài hạn hướng tới thể chế hóa thị trường vàng một cách bài bản hơn. Tuy nhiên trong ngắn hạn, NHNN cần tích hợp đồng bộ với các biện pháp khác như tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời công khai minh bạch thông tin về giá cả để tạo niềm tin cho thị trường và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Tiến sĩ Phạm Đức Anh, Viện Nghiên cứu khoa học ngân hàng (Học viện Ngân hàng)