Ngày 31-12, Ngân hàng Nhà nước giảm 3 đồng tỉ giá trung tâm, đưa mức niêm yết xuống 25.121 đồng/USD. Diễn biến này ngay lập tức lan tỏa tới các ngân hàng thương mại, kéo giá USD cùng điều chỉnh giảm theo.
Giá đôla Mỹ trượt giảm mạnh
Vietcombank đồng loạt giảm 3 đồng ở cả hai chiều, đưa giá mua tiền mặt về 26.047 đồng/USD và bán ra 26.377 đồng/USD. Eximbank giữ nguyên giá mua 26.050 đồng/USD nhưng cũng giảm 3 đồng ở chiều bán, xuống 26.377 đồng/USD. Tính chung hai tuần qua, giá USD tại các ngân hàng thương mại giảm khoảng 80 đồng chiều mua và gần 30 đồng chiều bán. Mức điều chỉnh không lớn nhưng mang ý nghĩa xu hướng.
Trên thị trường tự do, USD tiếp tục dao động đan xen tăng - giảm, song biên độ biến động đã thu hẹp đáng kể. Nhiều phiên, giá mua bán lùi sâu dưới mốc 27.000 đồng/USD. Chiều 31-12, USD chợ đen giao dịch quanh 26.996 - 27.116 đồng/USD, tăng gần 70 đồng so với trưa hôm trước. Tuy nhiên, ngay trong phiên trước đó, có thời điểm đồng bạc xanh rơi xuống vùng 26.755 - 26.875 đồng/USD.
So với đỉnh gần nhất, giá USD tự do đã giảm tới 1.215 đồng. So với đầu năm, tỉ giá USD/VND "chợ đen" chỉ tăng khoảng 5%. Con số này thấp hơn đáng kể so với mức tăng trên 8% ghi nhận vào đầu tháng 10. Điều này cho thấy áp lực tỉ giá đã dịu đi rõ rệt khi bước vào giai đoạn cuối năm.
Nhận định về diễn biến giá USD, ông Trần Duy Phương, chuyên gia vàng, cho rằng thị trường đã lùi xa vùng đỉnh tháng 10 dù còn biến động. Theo ông, cuối năm nguồn cung USD tự do dồi dào, cung vượt cầu sẽ tạo áp lực giảm giá.
Vậy tại sao có những phiên giá đồng bạc chợ đen giảm mạnh lại nhanh chóng phục hồi trở lại?. Trao đổi về vấn đề này, ông Phương cho biết khi giá USD rơi về vùng thấp, nhiều người có tiền nhàn rỗi mua một ít để giữ giá trị, phòng rủi ro. Không phải để đầu cơ lớn, mà đơn giản là "để đó cho yên tâm". Với người dân, USD lúc này vẫn chủ yếu là công cụ giữ tiền, chưa phải kênh lướt sóng hay kỳ vọng sinh lời lớn ngắn hạn.
"Cùng lúc, những nhu cầu quen thuộc vào cuối năm như nhập hàng hóa từ Mỹ phục vụ Tết Nguyên đán hoặc chuẩn bị ngoại tệ cho các khoản chi thời vụ cũng khiến lực cầu trở lại, đủ kéo giá lên nhẹ", ông Phương nói.
Ông Phương nhận định thêm: "Tuy nhiên, nhịp hồi hiện nay khá dè dặt. Hễ giá nhích lên một chút là có người bán ra, cho thấy thị trường chưa tin vào đợt tăng mới. Hơn nữa, cận Tết lượng USD trong dân thường nhiều hơn do kiều hối, tiền xuất khẩu và nhu cầu đổi sang tiền đồng để chi tiêu. Điều này khiến USD chợ đen khó tăng mạnh, thậm chí còn chịu áp lực giảm".
Bà Trần Thị Ngọc Liên, Phó Giám đốc NHNN chi nhánh khu vực 2, cho biết dòng kiều hối thường tăng mạnh vào quý IV hằng năm. Đây là cao điểm kiều bào chuyển tiền về nước phục vụ chi tiêu dịp Tết và năm 2025 tiếp tục đi theo quy luật này.
Theo ước tính, kiều hối về TP.HCM năm 2025 có thể đạt khoảng 10,5 tỉ USD, tăng 10,5% so với năm 2024. Mức tăng này phản ánh niềm tin của kiều bào vào ổn định kinh tế vĩ mô, điều hành tỉ giá linh hoạt và mặt bằng lãi suất hợp lý. Trước đó, năm 2024, TP.HCM ghi nhận khoảng 9,6 tỉ USD kiều hối, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng 16 tỉ USD của cả nước. Với đà hiện nay, lượng kiều hối năm 2025 nhiều khả năng sẽ vượt năm trước.
Tỉ giá, lãi suất và dòng vốn: Bài toán đánh đổi của ổn định vĩ mô
Dưới góc nhìn vĩ mô, TS Đỗ Thiên Anh Tuấn, Giảng viên Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, cho rằng tỉ giá hiện là biến số nhạy cảm bậc nhất. Nó thậm chí nhạy cảm hơn lãi suất bởi tác động trực tiếp đến dòng vốn và kỳ vọng của nhà đầu tư nước ngoài.
Theo TS Tuấn, việc khối ngoại rút vốn thời gian qua chủ yếu đến từ rủi ro tỉ giá. Một danh mục đầu tư có thể đạt mức sinh lời 3%, nhưng nếu nhà đầu tư kỳ vọng tỉ giá tăng 4% thì khi quy đổi ngoại tệ để rút vốn, lợi nhuận này có thể bị bào mòn, thậm chí thua lỗ. Trong bối cảnh đó, lựa chọn hợp lý là bán sớm danh mục và rút vốn trước khi tỉ giá biến động mạnh hơn.
Thực tế, số liệu bán ròng gần đây của nhà đầu tư nước ngoài phản ánh rất rõ kỳ vọng tỉ giá có thể tăng nhanh. Lũy kế từ đầu năm đến hết ngày 30-12, nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng khoảng 122.000 tỉ đồng trên thị trường chứng khoán Việt Nam, đánh dấu một năm rút vốn quy mô lớn và kéo dài.
Ông Tuấn cho rằng lãi suất trong nước tăng thời gian qua không ngẫu nhiên, mà nhằm giảm sức ép lên tỉ giá và giữ ổn định dòng vốn. Đáng lẽ khi Fed bắt đầu giảm lãi suất, các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam có dư địa để nới lỏng. Tuy nhiên, sức ép tỉ giá tiềm ẩn buộc Việt Nam phải đi ngược xu hướng toàn cầu, chấp nhận tăng lãi suất để tránh vốn rút ra ồ ạt.
Dù vậy, đây vẫn là bài toán đánh đổi nan giải. Nếu không tăng lãi suất, tỉ giá USD/VND có nguy cơ bật mạnh, kéo theo áp lực nhập khẩu lạm phát. Ngược lại, tăng lãi suất lại khiến các doanh nghiệp vay vốn bằng VND chịu sức ép về chi phí tài chính.
Theo ông Tuấn, giải pháp phù hợp là "chia lửa" giữa lãi suất và tỉ giá. Lãi suất chỉ nên tăng mức vừa phải để giảm áp lực cho doanh nghiệp, đồng thời chấp nhận tỉ giá biến động trong biên độ nhất định. Điều này quan trọng trong bối cảnh hệ số nợ của nền kinh tế đang cao, với tín dụng/GDP trên 140%. Nếu dồn toàn bộ áp lực lên lãi suất, rủi ro tài chính sẽ gia tăng đáng kể.
Cách tiếp cận này tạo thế cân bằng giữa ổn định tỉ giá và kiểm soát chi phí vốn, đồng thời hạn chế bong bóng tài sản, hạ nhiệt kỳ vọng lạm phát. Việc duy trì mặt bằng lãi suất hợp lý trở thành "mỏ neo" quan trọng cho kỳ vọng thị trường, qua đó hỗ trợ ổn định tỉ giá bền vững.
Ông Tuấn nhận định rất khó đưa ra con số chính xác về mức biến động tỉ giá phù hợp. Tuy nhiên, trong điều kiện hài hòa các mục tiêu vĩ mô, mức tăng giá của USD so với VND khoảng 3% là chấp nhận được để san sẻ áp lực với lãi suất. Nếu tỉ giá tăng cao hơn, nguy cơ dòng vốn chảy ra nước ngoài và áp lực nhập khẩu lạm phát sẽ rõ rệt hơn, làm suy yếu nền tảng ổn định vĩ mô.