Trước đó, Pháp Luật TP.HCM cũng đã tổ chức thành công buổi giao lưu trực tuyến với đại diện Nhóm nghiên cứu Sài Gòn truyền thông với chủ đề “Báo chí với quyền tiếp cận thông tin” .
Công khai tối đa, bí mật tối thiểu và hướng đến sự minh bạch, trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, tổ chức và doanh nghiệp nhà nước nhằm góp phần làm giảm tham nhũng. Bình đẳng và không phân biệt đối xử đối với các nhóm dễ bị tổn thương trong tiếp cận thông tin; Cơ chế hiệu quả để thực thi đầy đủ quyền tiếp cận thông tin; Không “thụt lùi” so với các quy định về quyền tiếp cận thông tin, các chủ thể tiếp cận thông tin và các chủ thể cung cấp thông tin được quy định trong pháp luật hiện hành…
Đây là những vấn đề quan trọng trong dự thảo luật Tiếp cận thông tin sắp được trình Quốc hội cho ý kiến vào tháng 10 này.
Công khai tối đa, hạn chế tối thiểu
“Luật Tiếp cận thông tin là một trong số các luật hiện thực hóa quyền tự do dân chủ của người dân. Người dân giành thế chủ động trong yêu cầu được cung cấp thông tin, nhà nước có trách nhiệm cung cấp. Nguyên tắc tất cả thông tin đều là công khai, trừ những danh mục cụ thể về ngoại lệ sẽ giúp cả cán bộ công chức, doanh nghiệp và người dân không phải băn khoăn về một rừng quy định về quyền tiếp cận thông tin, từ đó mạnh dạn cung cấp thông tin"- GS-TS Nguyễn Đăng Dung phân tích.
Theo GS Dung, quyền tiếp cận thông tin không phải là quyền tuyệt đối, quyền này phải chịu sự giới hạn bởi việc bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. "Nếu việc công khai những vấn đề bị loại trừ này có lợi hơn cho quốc gia, cho người dân thì không nhất thiết phải loại trừ” – GS Dung lưu ý.
Mời bạn đọc đặt câu hỏi tham gia giao lưu trực tuyến về quyền tiếp cận thông tin Bạn cần tìm hiểu về thông tin đất đai nhưng tìm hoài không thấy được công bố trên cổng thông tin của địa phương, cũng không tìm thấy tại trụ sở UBND hoặc tại Văn phòng một cửa dù việc thông tin đất đai là loại thông bắt buộc phải công bố. Bạn cần tiếp cận thông tin về việc tuyển dụng vào một cơ quan thì có thể yêu cầu không? Bạn có thể làm gì nếu không được đáp ứng yêu cầu? Bạn biết gì về người bạn sẽ chọn để trao trọng trách đại diện cho mình trước cơ quan dân cử? Thông tin về người ấy sẽ được tìm thấy ở đâu? Bạn là người đã chuyển giới, liệu nhà nước có phải làm lại giấy tờ hộ tịch, nhân thân cho bạn nếu bạn có yêu cầu? Chúng ta đóng thuế hàng ngày thông qua những chi tiêu sinh hoạt và hàng loạt chi phí dịch vụ khác. Có bao giờ bạn tự hỏi tiền thuế của mình được sử dụng thế nào? Làm sao biết được những thông tin đó nếu nhà nước không chủ động công khai? Công khai kế hoạch phân bổ ngân sách trước khi phê duyệt ở tất cả các cấp có phải là nghĩa vụ của nhà nước? Công khai thông tin thì có lợi gì cho nhà nước và người dân? Xử lý người cung cấp thông tin sai thế nào? Nếu cung cấp thông tin sai gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với hoạt động báo chí, thậm chí báo chí vì thế mà bị xử lý hình sự thì người cung cấp chịu trách nhiệm thế nào? Liệu chế tài có làm thay đổi hành vi và làm cho người cung cấp thông tin thấy rằng đó cũng chính đạo đức công vụ? Liệu người thực thi pháp luật đã biết rằng cung cấp thông tin trung thực là để xây dựng lòng tin đối với người dân chứ không phải để đối phó. ... Báo Pháp Luật TP.HCM sẽ tổ chức cuộc giao lưu trực tuyến về những nội dung cơ bản của quyền tiếp cận thông tin trong quyền con người và tiến trình xây dựng luật. Thời gian: 14 giờ Thứ Hai, ngày 20-7-2015. Khách mời: - GS-TS Nguyễn Đăng Dung, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội, thành viên ban soạn thảo Luật Tiếp cận thông tin. - Ông đặng Tâm Chánh, chuyên gia nghiên cứu về quyền Tiếp cận thông tin của báo chí. -Nhà báo Nguyễn Đức Hiển, TTKTS Báo Pháp Luật TP.HCM. - Bà Ngô Thu Hà, nhóm công tác Vì sự tham gia của người dân PPWG. Kính mời bạn đọc góp ý hoàn thiện dự thảo luật và đặt câu hỏi giao lưu. Chúng tôi sẽ tiếp nhận câu hỏi từ bây giờ. |
(PLO)- Những thông tin nào cơ quan công quyền phải cung cấp cho dân? Báo chí khi bị từ chối cung cấp thông tin phải làm gì… GS-TS Nguyễn Đăng Dung, thành viên ban soạn thảo dự luật Tiếp cận thông tin và nhà báo Đặng Tâm Chánh sẽ có buổi giao lưu với bạn đọc vào 14 giờ ngày thứ Hai 20-7 trên Pháp Luật TP.HCM.
- 1. Thời gian: 00:00 19/07/2015
- 2. Địa điểm: Trụ sở Tòa soạn Báo điện tử Pháp Luật thành phố Hồ Chí Minh
Danh sách khách mời
GS-TS Nguyễn Đăng Dung, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội
Ông Đặng Tâm Chánh, chuyên gia nghiên cứu về quyền Tiếp cận thông tin của báo chí
Nhà báo Nguyễn Đức Hiển, TTKTS Báo Pháp Luật TP.HCM
Bà Ngô Thu Hà, nhóm công tác Vì sự tham gia của người dân PPWG
Tôi coi việc cung cấp thông tin là một quyết định hành chính. Khi cơ quan công quyền cung cấp quyết định hành chính sai, chậm trễ, cản trở...thì sẽ phải chịu trách nhiệm. Có ba mức độ chế tài là: chế tài hành chính, chế tài dân sự và chế tài hình sự. Ví dụ, nếu sai phạm trong công tác hành chính thì có thể bị kỷ luật, cách chức; nếu gây thiệt hại cho người dân thì phải bồi thường, trong trường hợp nặng có thể bị xét xử hình sự.
GS-TS Nguyễn Đăng Dung, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội.
Quyền TCTT có ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống của mỗi công dân và đời sống xã hội nói chung. Tuy nhiên không phải tất cả mọi người dân đều có thể hiểu sâu và đầy đủ về nó. Hiện nay, dự thảo của Luật TCTT đang được Bộ Tư pháp đưa ra lấy ý kiến nhân dân và tháng 10 tới Quốc Hội sẽ cho ý kiến về dự luật này. Một trong các mục tiêu hoạt động của báo Pháp Luật TP.HCM là tuyên truyền và phổ biến pháp luật, đó là lý do để chúng tôi tổ chức cuộc giao lưu trực tuyến về Luật TCTT.
Cần nói thêm, đây là cuộc giao lưu trực tuyến lần thứ hai trong trong ba tháng qua về dự luật này.
Khi Luật TCTT được ban hành nghĩa là nó đã có hiệu lực pháp lý, thì các quy định về chế tài, xử lý cơ quan chức năng bưng bít thông tin sẽ có hiệu lực ngay. Tôi coi việc cung cấp thông tin cho người dân là một hoạt động hành chính bình thường của Nhà Nước. Khi cơ quan công quyền không thực hiện, hoặc thực hiện sai trách nhiệm của mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khởi kiện là tất yếu. Khi đó, cơ quan Nhà nước phải chịu trách nhiệm và sẽ bị chế tài nếu không thực hiện theo các quy định của Pháp luật.
Tất nhiên là có. Đây là Luật áp dụng cho tất cả mọi người. Với chủ thể là những cá nhân, tổ chức yếu thế thì càng cần có sự bảo trợ từ phía Nhà Nước. Trong trường hợp người yếu thế không có khả năng tiếp cận thông tin thì Nhà Nước sẽ có trách nhiệm hỗ trợ. Chính vì thế Dự thảo có điều khoản: Nhà nước phải tạo điều kiện cho những người yếu thế tiếp cận thông tin. Đối với từng đối tượng cụ thể sẽ có những quy định cụ thể về cách thức hỗ trợ từ nhà chức trách.
Trong Hiến pháp quy định rất rõ về quyền tiếp cận thông tin của công dân Việt Nam tại điều 25. Do đó, dự thảo Luật TCTT được viết cho đối tượng là công dân VN. Tuy nhiên, trong điều khoản áp dụng có mở ra cho đối tượng là những người nước ngoài nếu họ có quyền và lợi ích liên quan. Do vậy, đây là Luật được viết dưới góc độ nhân quyền, mang tính phổ biến cho mọi người, không riêng gì người có quốc tịch Việt Nam.
Ông Đặng Tâm Chánh, chuyên gia nghiên cứu về quyền Tiếp cận thông tin của báo chí.
Nhà báo có quyền tin tưởng và đánh giá cao các nguồn tin giá trị. Tuy nhiện, nhà báo phải chịu trách nhiệm về những thông tin mà mình đăng tải. Tin tưởng một nguồn tin không có nghĩa là bê nguyên xi và đăng nó lên báo mà không qua thẩm định. Mặt khác, ngay cả khi tin tức đó là chính xác thì nhà báo và cơ quan báo chí cũng phải lựa chọn và đánh giá xem nó có phù hợp với tôn chỉ mục đích, với đối tượng công chúng mà tờ báo ấy phục vụ hay không.
Việc tin tưởng đến mức lệ thuộc vào nguồn tin chắc chắn sẽ mang đến những rủi ro. Vì vậy, nhà báo phải đủ tỉnh táo để phản biện.
Bạn nói đúng, người dân ít biết về các tổ chức CSO và công việc của những tổ chức này làm vì từ trước đến nay, người dân Việt Nam biết nhiều hơn đến vai trò của các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội như Mặt trận tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ ở tất cả các cấp. Cộng đồng CSO mới được hình thành trong thời gian gần đây và từ những bước đầu tập trung vào xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ giáo dục và y tế thì hiện nay đã chuyển sang một giai đoạn mới là thúc đầy và bảo vệ quyền của các nhóm dễ tổn thương, vận động chính sách. Hiện nay, để làm việc được với người dân, các CSO vẫn phải được cho phép của các cấp chính quyền và phải hợp tác với một cơ quan nhà nước hoặc một tổ chức chính trị ở địa phương với các thủ tục mất nhiều thời gian nên người dân thường nhắc đến các đối tác hơn là các tổ chức CSO. Do đó, CSO cần hợp tác với các cơ quan báo chí và sử dụng công cụ truyền thông xã hội để chia sẻ với công chúng sứ mệnh và những công việc mình làm, các giá trị mình theo đuối cũng như chia sẻ kết quả nghiên cứu.
Thuật ngữ Tiếp cận thông tin, tự do thông tin thậm chí là tự do báo chí nhiều nước đã sử dụng về cơ bản là cùng một ý nghĩa. Trong các quốc gia có Luật TCTT thì có nước gọi là Tự do thông tin - như Mỹ, các nước khác nhau có cách gọi khác nhau, có nước còn gọi là Luật thông tin.
Hiến pháp 1992 được gọi là Quyền Được thông tin cho người dân. Hiến Pháp 2003 gọi cụ thể hơn ở điều 25 gọi là Quyền TCTT. Vì vậy, dự thảo này được chuẩn bị với tên gọi là Luật TCTT. Trong Tiếng Anh, từ TCTT tương đương với từ Access to Information, bao hàm được những quyền cụ thể như được quyền khai thác, chuyển tải, tra cứu, phát tán những gì có sẵn theo kiểu tiếp cận thông tin trên mạng hiện nay.
Theo quan điểm của tôi, sử dụng từ TCTT đúng với Hiến Pháp hơn, cụ thể và đúng nghĩa hơn.
Luật bí mật nhà nước đang được soạn thảo. Quan điểm của tôi luật TCTT và luật bí mật thông tin có liên quan mật thiết với nhau, nó phải là hai mặt của một đồng xu. Đúng ra những quy định về bí mật phải được cụ thể hóa trong luật TCTT nhưng công tác soạn thảo quy định về bí mật lại có quy trình thực hiện khác và đang được tiến hành.
Các CSO nên tự tin và bình đẳng với báo chí. Thay vì "nhờ vả" và đề nghị hỗ trợ thông tin, hãy cho các nhà báo thấy rằng các bạn là những nguồn tin có giá trị, hấp dẫn và chính xác.
Thay vì đề nghị báo chí giúp đỡ, các CSO hãy "quyến rũ" chúng tôi.
Nhà báo Nguyễn Đức Hiển, TTKTS Báo Pháp Luật TP.HCM.
Tôi tham gia với tư cách là nhà khoa học. Qua những cuộc họp ban biên tập và ban soạn thảo với tư cách là nhà nghiên cứu. Đây là một luật mới, chưa từng được ban hành nên việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới là vô cùng cần thiết và hữu ích.
Trong quá trình soạn thảo, tôi dành nhiều thời gian cho việc đi điều tra thực tiễn ở địa phương, giao lưu với nhiều tổ chức CSO trong và ngoài nước nhằm nắm bắt, ghi nhận đầy đủ, sâu sát về diễn biến tình hình hiện tại. Hơn nữa, bạn có thể an tâm rằng Ban biên soạn là một tập thể hoạt động, nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau chứ không phải là một cá nhân. Tất cả nhằm mục đích cho ra đời một đạo luật thiết thực, toàn diện, có tính ứng dụng cao.
Luật Báo chí hay còn gọi là luật tự do báo chí cũng là một loại hình của Luật TCTT. Năm 1766, khi Thụy Điển ban hành luật tự do báo chí, người ta cho rằng đây là luật đầu tiên trên thế giới về tự do thông tin và tự do TCTT. Nói đến tự do báo chí, tự do thông tin và TCTT là một.
Tuy nhiên, ở Việt Nam Luật Báo chí và dự thảo Luật TCTT theo tôi là có sự khác biệt rất rõ. Luật Báo chí chỉ dành cho những người trong ngành báo chí. Vì phạm vi và cách thức điều chỉnh luật báo chí được viết dưới góc chiếu hoàn toàn khác, thiên về nghề nghiệp không phải dưới góc độ nhân quyền. Còn TCTT được viết dưới ánh sáng của quyền con người, dành cho tất cả mọi đối tượng, trong đó có báo chí. Những người làm báo sẽ là những người kinh doanh thông tin trong môi trường tự do thông tin.
Khi có Luật TCTT, việc chất vấn của nhà báo đối với các cơ quan nhà nước sẽ dễ dàng hơn bởi họ không thể thoái thác việc cung cấp thông tin mà luật này buộc này buộc phải cung cấp. Tuy nhiên, với Luật TCTT người dân cũng có thể tự mình yêu cầu cung cấp các thông tin cần thiết thay vì "nhờ cậy" báo chí. Vì thế việc khai thác thông tin từ chính quyền của nhà báo sẽ được chọn lọc và có chiều sâu hơn là "dàn hàng ngang" như hiện nay.
Điều này tùy thuộc vào mỗi cơ quan báo chí và nhà báo, tùy thuộc vào quan điểm hành nghề báo của họ. Nếu một tờ báo coi mục tiêu lợi nhuận là tối thượng và nhà báo coi lợi ích kinh tế là mục tiêu tác nghiệp thì họ sẽ bỏ qua những thông tin ít được quan tâm về các nhóm yếu thế như bạn đề cập.
Tuy nhiên theo tôi, ngay cả những thông tin về các đối tượng đặc biệt vẫn có cách khai thác nhân văn và hấp dẫn công chúng. Mức độ hấp dẫn tùy thuộc vào kiến thức và kỹ năng của nhà báo.
Cạnh đó, trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp không cho phép báo chí bỏ qua hoặc hời hợt trước các nhóm yếu thế. Bởi chúng ta đưa tin là để phục vụ con người, phục vụ sự phát triển của xã hội.
Dự thảo Luật nêu 3 trường hợp giới hạn tiếp cận: bí mật quốc gia (an ninh công cộng), bí mật đời tư và bí mật thương mại. Ở những khía cạnh này, người tiếp cận phải tiếp cận hạn chế. Người nắm giữ bí mật sẽ cân nhắc lợi - hại giữa việc cung cấp hay không cung cấp thông tin để quyết định có công khai hay không. Nếu cái lợi lớn hơn thì người nắm giữ bí mật có thể công khai thông tin trong giới hạn tiếp cận.
Việc đóng dấu Mật được quy định trong Pháp lệnh Bí mật quốc gia cũng như các nghị định hướng dẫn của chính phủ về cấp độ mật. Theo quy định của những văn bản này, các văn bản từ Mật đến Tuyệt Mật là rất nhiều do các cơ quan tự đề xuất. Các đề xuất này được đưa lên Bộ Công An, Bộ sẽ quyết định các vấn đề Mật, các vấn đề tuyệt mật do Chính Phủ quyết định.
Dạng văn bản này phù hợp với nước ta trong giai đoạn nền kinh tế quan liên bao cấp, đặc biệt là thời chiến. Thời kỳ này rất dài, cộng thêm trách nhiệm và tinh thần giữ bí mật luôn là thói quen của cơ quan công quyền, việc đóng dấu Mật tràn lan là điều dễ hiểu.
Với luật TCTT tình trạng này sẽ phải chấm dứt. Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu và yêu cầu của nhà nước pháp quyền, nền công vụ minh bạch đưa ra yêu cầu khách quan như thế. Hoạt động công khai và minh bạch cho đến nay chưa thực sự trở thành thói quen của công chức nhà nước, nên Luật TCTT sẽ mở đường cho thời kỳ mới tiến bộ hơn, đúng với xu hướng phát triển của cả thế giới.
Hiện nay chưa có quy định về chế tài đối với hành vi chậm cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin sai sự thật mà chỉ có chế tài đối với hành vi không cung cấp thông tin với mức xử phạt từ 200 ngàn đến 500 ngàn đồng. Điều này được quy định tại Nghị định 159/2013.
Quyền TCTT có phải là một bước tiến hay không cần xem xét ở nhiều góc độ. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì Luật TCTT thực sự là một bước tiến bởi trước đây vấn đề này chưa từng đưa ra, người dân chưa từng được đặc cách quyền này. Từ chỗ chưa từng tiếp cận đến chỗ được tiếp cận và xem tư liệu làm ra của nhà nước là tài sản của mình. Người dân được tiếp cận, sử dụng, phát tán... để bảo vệ quyền lợi của mình thì rõ ràng là một bước tiến lớn.
Quyền TCTT thực chất không chỉ phục vụ cho báo chí mà là áp dụng cho toàn dân. Trước đây, Luật báo chí của chúng ta không nói được tinh thần này, chưa nâng tầm được tới mức độ này.
Đây là bước tiến không chỉ của báo chí mà của tất cả mọi người vì nó liên quan đến nhân quyền. Đối với báo chí vừa là bước tiến vừa là thách thức bởi khi thông tin công khai rộng rãi, tính cạnh tranh càng được nâng cao.
Tự do báo chí cũng là một thể hiện của Luật TCTT, trong đó Thụy Điển được coi là cái gốc của tự do báo chí, tự do ngôn luận cho tất cả mọi người.
Một số tổ chức đang vận động cho một Luật tiếp cận thông tin đảm bảo những thông tin liên quan đến đất đai cũng như các vụ việc được cung cấp chính xác, nhanh chóng và người cung cấp thông tin phải chịu trách nhiệm về sự chính xác của thông tin
Bà Ngô Thu Hà, nhóm công tác Vì sự tham gia của người dân PPWG.
Trước hết, các CSO này cần nói lên tiếng nói của người khuyết tật để quyền tiếp cận thông tin của người khuyết tật trong đó có người khiếm thị và khiếm thính được bảo đảm quyền. Theo đó, cần vận động để nhà nước có những quy định cụ thể hướng dẫn các cơ quan công cung cấp thông tin cho người khuyết tật, xây dựng cơ sở hạ tâng cung cấp thông tin cho người khiếm thị và khiếm thính... Khi đã có chính sách, CSO cần giám sát việc thực thi của các tổ chức công cũng như phổ biến những thông tin liên quan đến các nhóm khuyết tật này. Khi quyền TCTT bị vi phạm, cần hỗ trợ những nhóm người này khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định của pháp luật.
Trước hết, những người soạn thảo luật cần thực hiện tham vấn với các nhóm khác nhau bao gồm các nhóm DTTS. Nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử cần được đưa vào như là một nguyên tắc xuyên suốt của bất kỳ văn bản luật nào và nhà nước cần có những quy định để trên cơ sở đó đảm bảo nguồn lực, cơ sở vật chất đảm bảo quyền của các nhóm xã hội khác nhau bao gồm nhóm DTTS.
Để các nhóm yếu thế có thể tiếp cận thông tin, tôi nghĩ một mặt các tổ chức xã hội đại diện được cho lợi ích của họ cần đóng vai trò tích cực hơn, một mặt giúp họ nâng cao ý thức, nhận thức, mặt khác cần có sự tư vấn, hướng dẫn họ kỹ lưỡng, chu đáo.
Báo chí cũng là một kênh rất tích cực để các nhóm này có cơ hội tiếp cận thông tin. Nên tăng cường mối liên hệ với báo chí cho yêu cầu này. Đây cũng là một trách nhiệm luật định của báo chí.
Ông Đặng Tâm Chánh, chuyên gia nghiên cứu về quyền Tiếp cận thông tin của báo chí.
Luật TCTT quy định cho mọi người không riêng gì báo chí. Báo chí như một chủ thể quan trọng, chính yếu trong việc khai thác và cung cấp thông tin cho cộng đồng. Báo chí giống như một doanh nghiệp, khai thác và kinh doanh thông tin, có được thông tin càng hay, càng hữu ích thì việc "kinh doanh" càng thành công và đúng nhiệm vụ.
Việc khai thác bí mật quốc gia của báo chí cũng giống như của các chủ thể khác, không được khai thác, không được phát tán các bí mật quốc gia có trong quy định. Trong trường hợp mâu thuẫn giữa người cung cấp và người yêu cầu thì có thể đưa ra khiếu kiện nếu cần thiết.
Có ba loại thông tin thuộc nhóm bí mật: Thông tin bí mật quốc gia, thông tin bí mật thương mại và thông tin bí mật cá nhân.
Tuy nhiên, báo chí có thể khai thác trong phạm vi hạn chế, khi chủ thể giữ bí mật cân nhắc việc cung cấp thông tin có lợi cho cộng đồng, quốc gia hơn so với việc không cung cấp thì mới có thể cung cấp. Tinh thần của luật TCTT là bí mật tối thiểu, công khai tối đa. Cung cấp là nguyên tắc chung, không cung cấp là ngoại lệ. Trường hợp công cung cấp phải có lập luận bằng văn bản rõ ràng.
Khó khăn lớn nhất là không ai muốn cung cấp tài liệu, chứng cứ cho báo chí để rồi nhà báo dùng những tư liệu ấy chống lại mình. Gần như tất cả những đối tượng bị điều tra và những người liên quan đều tìm cách thoái thác, cản trở và thậm chí đe dọa.
Thứ hai, nhà báo rất có thể ngộ nhận rằng mình đã có đầy đủ thông tin để phanh phui một vụ tiêu cực dù trong nhiều trường hợp những gì anh ta có chỉ là một góc sự thật.
Thứ ba, do sự e ngại đụng chạm và các mối quan hệ khác, kể cả khi bạn đã có chứng cứ thì cũng rất khó khăn nếu muốn phỏng vấn ai đó có thẩm quyền về vụ việc tiêu cực ấy. Đôi lúc họ chỉ lên tiếng sau khi bài báo đã đăng và áp lực dư luận buộc họ không thể không lên tiếng.
"Thông tin là tính mạng, thông tin là sức khỏe và thông tin là tài sản". Một cá nhân dù là ai, đang có sức khỏe như thế nào cũng có mong mỏi được cung cấp thông tin. Trong trường hợp này, thông tin về các chính sách y tế, các loại thuốc điều trị bệnh... cũng không nằm ngoài những quan tâm của người đang điều trị bệnh ung thư. Việc người bệnh đang xem tivi, đọc báo, theo dõi tin thức... có liên quan thực ra cũng là thông tin.
Việc có một Luật tiếp cận thông tin tốt đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong tiếp cận thông tin và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức công phải cung cấp thông tin là nền tảng để thông tin được công khai và/hoặc cung cấp khi có yêu cầu. Lúc này, hành động của các cơ quan công là thực thi nghĩa vụ của mình mà không phải theo cách xin-cho như khi không có luật TCTT.
Bạn có thể vào trang fanpage TÔI BIẾT để đọc và biết cách CSOs đang vận dụng quyền tiếp cận thông tin và các nguyên tắc phổ quát đóng góp cho dự thảo Luật TCTT.
Đây là thực trạng khi chưa có Luật TCTT mà chỉ mới áp dụng các điều luật hiện tại, cụ thể như Luật Báo chí.
Trên tinh thần các luật hiện hành, việc cung cấp thông tin chưa phải là trách nhiệm bắt buộc của cán bộ hoặc cơ quan công quyền. Hơn thế nữa, các cơ quan và cán bộ này lại phải thực hiện trách nhiệm rất lớn trong nhiệm vụ bảo vệ bí mật nên có thái độ cẩn trọng là tất yếu.
Khi Luật TCTT được ra đời, nó có mục tiêu chấm dứt tình trạng trên. Khi đó, cung cấp thông tin đã trở thành trách nhiệm bắt buộc của cơ quan công quyền, cán bộ công chức. Nếu họ không thực hiện nghiêm túc việc này thì có thể sẽ bị pháp luật chế tài.
Strength (Ưu điểm): So với những năm trước, CSO độc lập hơn, các chương trình hành động cụ thể hơn và có tác động nhiều hơn đến các nhóm công chúng mục tiêu của họ.
Weak (Nhược điểm): Kỹ năng khai thác thông tin của nhân viên , cán bộ các CSO chưa cao , chất lượng phân tích thông tin không đồng đều.
Oppotunity (Cơ hội): Nhu cầu minh bạch thông tin lớn. Điều này giúp CSO có nhiều cơ hội thể hiện sự hỗ trợ với công chúng.
Threats (Thách thức): Thực hiện được các tiêu chí chính xác-đầy đủ-kịp thời trong tiếp cận thông tin là 1 thách thức.
Nhà báo Nguyễn Đức Hiển, TTKTS Báo Pháp Luật TP.HCM trả lời bạn đọc.
Nhà báo và người dân phải nắm chắc quyền của mình cũng như quyền và trách nhiệm trả lời, thẩm quyền trả lời của các cơ quan tổ chức. Trong trường hợp bị thoái thác cung cấp thông tin một cách trái pháp luật thì phải dùng những quyền năng đã được pháp luật quy định để đòi hỏi, khiếu nại, phê phán những người đã thoái thác. Nhà báo phải sử dụng quyền chất vấn, yêu cầu cung cấp thông tin chứ không chỉ năn nỉ, xin xỏ hoặc tìm cách có được thông tin bằng các mối quan hệ thân thiết. Và để làm được điều đó thì phải minh bạch mục đích cung cấp thông tin cũng như công khai tên tuổi của những người đã từ chối nhu cầu cung cấp thông tin chính đáng của công chúng.
Đó là cách "đặt trách nhiệm" vào tay các cơ quan công quyền.
Trả lời: Việc có một luật tiếp cận thông tin tốt đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong tiếp cận thông tin và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức công phải cung cấp thông tin là nền tảng để thông tin được công khai và/hoặc cung cấp khi có yêu cầu. Lúc này, hành động của các cơ quan công là thực thi nghĩa vụ của mình mà không phải theo cách xin-cho như khi không có luật TCTT.
Ta có nhiều luật nhưng mỗi luật có mục tiêu, mục đích rõ ràng. Trong mỗi trường hợp cụ thể cần phải xem xét điều kiện cụ thể của vụ việc, sự kiện để áp dụng một luật phù hợp. Không nhất thiết cứng nhắc luôn áp dụng một đạo luật duy nhất. Khi luật TCTT được thông qua, luật này dành thế chủ động cho người dân. Vì vậy Luật tếp cận thông tin dẫn đến sự thay đổi về chất rất lớn trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, thực thi luật này vào cuộc sống không dễ dàng. Ví dụ như ở Anh Quốc, một đất nước rất phát triển năm 2000 đã thông qua luật này. Tuy nhiên phải đến năm 2005 (5 năm sau) luật này cũng chỉ mới áp dụng được ở một vài Bộ rồi mới dần dần mới lan tỏa. Luật này đòi hỏi thời gian thực nghiệm. Do đó, dự thảo luật TCTT được Bộ Tư pháp soạn thảo, chuẩn bị trình lên Quốc Hội cũng dựa trên tinh thần đó, cần có thời gian để áp dụng dần dần.
Các quốc gia đều có những quy định về tiêu chuẩn diện tích, trang thiết bị cần thiết, an ninh và an toàn, trình độ chuyên môn và kỹ năng... cho các cá nhân và các cơ sở chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ khuyết tật do đó một cơ sở không thể nhận số cháu vượt quá khả năng của mình. Tuy nhiên, nhà nước phản ban hành các chính sách, phân bổ nguồn lực công và có cơ chế để xã hội huy động để mở rộng số cơ sở cũng như năng lực của mỗi cơ sở để số cháu được nhận chăm sóc ngày càng nhiều hơn.
Về nguyên tắc, khi đã có sự mâu thuẫn thì phải có sự giải quyết: từ đối thoại, thỏa thuận đến tìm cơ quan tài phán (tòa án). Dự thảo luật TCTT không quy định cụ thể vấn đề này nhưng về nguyên tắc là được phép kiện nếu đăng sai thông tin.
Hơn nữa, nhà báo ko bị điều chỉnh bởi luật TCTT trong mối quan hệ với công dân mà bị điều chỉnh bởi Luật báo chí. Một vấn đề ko giản đơn giải quyết bởi 1 đạo luật mà nhiều khi phải vận dụng một số luật khác nhau để giải quyết.
GS-TS Nguyễn Đăng Dung, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội, thành viên ban soạn thảo Luật Tiếp cận thông tin.
Báo chí vẫn đang làm, nhưng làm theo chiến dịch của nhiều tờ báo và nhà báo thì chưa có.
Nói chung câu hỏi hơi rộng vì tôi không đại diện cho tất cả giới báo chí. Tuy nhiên, sự kiện này hôm nay với sự có mặt của rất đông báo chí đã là một câu trả lời cho bạn rồi.
Nhà báo Nguyễn Đức Hiển, TTKTS Báo Pháp Luật TP.HCM.
Sau 2 tiếng đồng hồ, cuộc giao lưu trực tuyến nhận được hơn gần 150 câu hỏi từ các nhà báo, tổ chức xã hội, công dân,... hiện đang học tập, công tác trong nhiều lĩnh vực. Trong đó khoảng gần một nửa được trả lời trực tiếp trên báo Pháp luật TPHCM. Các câu hỏi còn lại sẽ được trả lời thông qua Diễn đàn Nhà báo trẻ.