Điện khí hóa nông thôn luôn là vấn đề đầy thách thức đối với ngành điện. Đưa điện đến những vùng mà phụ tải không tập trung, sản lượng điện tiêu thụ thấp, suất đầu tư xây dựng lưới điện cao… đồng nghĩa với việc hiệu quả kinh doanh cầm chắc là không thể hiệu quả.
Câu chuyện của “lá cờ đầu”
Thế nhưng, với EVNNPC - những thách thức ấy còn tăng lên gấp bội bởi tính đặc thù trong phạm vi quản lý. EVNNPC quản lý và phục vụ bán điện trên địa bàn 27 tỉnh, thành phố (từ Hà Tĩnh trở ra), trong đó có 15 tỉnh là trung du và miền núi. Tuy khó khăn như vậy, EVNNPC vẫn giành được “lá cờ đầu” trong việc thực thi chương trình điện khí hóa nông thôn của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).
Lưới điện nông thôn ở các tỉnh phía Bắc đã được củng cố và đảm bảo vận hành an toàn, chất lượng
Giai đoạn 2008-2014 được xem là giai đoạn khó khăn chung của EVN về nguồn vốn đầu tư. Muốn hóa giải được trở ngại lớn này, EVNNPC đã từng bước vận dụng các chính sách của Nhà nước, tranh thủ sự ủng hộ của các bộ, ngành và địa phương nhằm huy động vốn trong nước. Đồng thời tranh thủ hợp tác với các tổ chức quốc tế để có nguồn vốn ưu đãi, đầu tư cho điện nông thôn. Kết quả, EVNNPC đã hoàn thành tiếp nhận lưới điện hạ thế của 3.952 xã, đầu tư cải tạo tối thiểu để bán điện trực tiếp đến các hộ dân nông thôn.
Năm 2018, EVNNPC nâng số hộ dân nông thôn được sử dụng điện lưới quốc gia đạt 98,5%. Hầu hết các xã biên giới đã được cấp điện, góp phần cùng chính quyền địa phương thực hiện mục tiêu định canh định cư, xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế và giữ gìn an ninh khu vực biên giới – hải đảo.
Nhờ có dòng điện nên đã làm “thay da đổi thịt” của nhiều tỉnh, thành khu vực phía Bắc. Có điện không chỉ xóa đói giảm nghèo mà còn phát triển bền vững cho khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo. Từ việc giúp người dân thay đổi cơ cấu cây trồng, thay đổi quy mô và tập quán canh tác, chăn nuôi, tăng năng suất trồng trọt và chế biến nông lâm sản, nâng cao thu nhập cho người dân khu vực nông thôn.
Điện cũng giúp cho các làng nghề truyền thống sử dụng công cụ máy móc thay thế sức người, phát huy sản phẩm cổ truyền và mở rộng ngành nghề mới. Các phương tiện nghe nhìn được sử dụng ngày càng phổ biến, cải thiện đời sống văn hóa, nâng cao dân trí, đem lại những lợi ích cơ bản và lâu dài cho các địa phương, làm cơ sở xây dựng nông thôn mới trong thời kỳ công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Những nỗ lực trong điện khí hóa nông thôn của EVNNPC đã góp phần quan trọng đưa tỉ lệ số xã, hộ nông thôn có điện ở Việt Nam ở mức cao hơn một số nước trong khu vực.
Góp phần giữ vững biển đảo
Đưa điện lên núi cao đã khó khăn, đưa điện ra đảo xa còn thách thức hơn. Mặc dù còn nhiều khó khăn về vốn, hạ tầng cơ sở, EVNNPC vẫn luôn nâng cao trách nhiệm, vượt qua mọi khó khăn để thực hiện tốt việc đưa điện lưới quốc gia ra đảo, góp phần giữ vững an ninh vùng biển đảo của Tổ quốc.
Dòng điện đã tạo nên những kết quả đáng khích lệ, không chỉ xóa đói giảm nghèo mà còn phát triển bền vững cho khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo
Năm 2013, EVNNPC đã đưa điện lưới quốc gia ra đảo Cô Tô (Hải Phòng), công trình đầu tiên kết nối lưới điện từ đất liền đến với huyện đảo xa xôi. Vượt qua nhiều khó khăn, công trình đã hoàn thành với thời gian kỷ lục, chỉ 345 ngày đêm với tinh thần “thần tốc, táo bạo, sáng tạo”. Nhờ thành công của dự án đưa điện lưới ra đảo Cô Tô, EVN đã triển khai các dự án tiếp theo, đưa điện lưới quốc gia ra đảo Phú Quốc (Kiên Giang), Lý Sơn (Quảng Ngãi)...
Bây giờ, lưới điện nông thôn ở các tỉnh phía Bắc đã được củng cố và đảm bảo vận hành an toàn, chất lượng; giá điện bán lẻ tới các hộ sử dụng đã được áp dụng theo biểu giá chung trong cả nước. Điều đó cho thấy việc quản lý điện nông thôn ở EVNNPC đã có những bước chuyển biến cơ bản, thực sự góp phần xây dựng nông thôn mới giàu mạnh, văn minh và hiện đại.