Sáng 15-11, Quốc hội thảo luận về Luật Cạnh tranh (sửa đổi) bởi sau 12 năm thi hành, nhiều vấn đề bất cập đã lộ rõ. Luật Cạnh tranh cũ đã không còn theo kịp những biến động của thực tế trong nước và thế giới.
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP.HCM) đã có một bài phát biểu về cạnh tranh không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế. Ông Nghĩa cũng cảnh báo tình trạng Việt Nam (VN) đang thua khi cạnh tranh trên sân nhà và nguy cơ mất chủ quyền ngay tại quê hương mình.
Pháp Luật TP.HCMđăng nguyên văn bài phát biểu này.
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa nói: "Gạo Campuchia khiến chúng ta phải nghiêm túc suy nghĩ".
Vừa qua, nhiều cử tri, nhất là các doanh nghiệp quốc nội, phản ánh nhiều điều bất hợp lý, bất công, muốn được Chính phủ và Quốc hội quan tâm giải quyết thông qua Luật Cạnh tranh. Đó là, trong khi hàng hóa và dịch vụ Việt Nam đang phải vất vả để giữ thị phần trên các thị trường ngoài nước thì đang lại phải đấu tranh gian khổ hơn để tồn tại trong nước, trước sức ép của các nhà đầu tư, tập đoàn bán buôn, bán lẻ, các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài.
Một câu hỏi đặt ra: chúng ta hội nhập, mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài để làm gì? Câu trả lời phải là: để tăng cường nội lực Việt Nam, củng cố, tăng cường chủ quyền Việt Nam, để Việt Nam đuổi kịp thế giới bên ngoài và giữ vững, thậm chí mạnh hơn bên trong, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, để tăng cường nội lực và chủ quyền quốc gia, trước hết về kinh tế, và khai thác các nguồn lực và thị trường bên ngoài.
Đây không chỉ là mục đích của những nước chậm và đang phát triển khi tham gia các hiệp định thương mại tự do, mà còn là của các nền kinh tế phát triển, ở mọi châu lục, dù che giấu dưới những cụm từ nghe rất hoa mỹ nhưng đều nhằm mục đích bảo hộ, như “tối huệ quốc”, “đối xử quốc gia”, “ưu đãi phổ cập”, “ODA”, “chống phá giá”, “rào cản kỹ thuật”.
Những nhà đàm phán của Việt Nam đã quá rõ điều này, và bên dưới các luật chơi công khai nằm trong các hiệp định là các luật chơi thực chất, đó là “cá lớn nuốt cá bé”, khôn sống, mống chết”, và “không có bữa trưa miễn phí”, dù là vịt Bắc Kinh hay Hamburger New York. Các luật chơi thực chất này thậm chí đang được công khai và trở thành chính sách và luật pháp ngay từ các nền kinh tế mạnh nhất và giàu nhất hành tinh, thông qua các khẩu hiệu như “nước Mỹ trên hết”, và “giấc mơ Trung Hoa”.
Chúng ta không kỳ thị các doanh nghiệp nước ngoài và sẵn sàng đối xử “tối huệ quốc”, đối xử “quốc gia”, tuân thủ rào cản kỹ thuật, nhưng vấn đề là hàng trăm tỷ đô la xuất khẩu mỗi năm, hàng trăm tỷ đô la đầu tư FDI và hàng trăm tỷ đô la đầu tư gián tiếp (FII) trong hai mươi năm qua đã đem lại gì cho nội lực Việt Nam?
Nhiều tài liệu nghiên cứu của chuyên gia và các cơ quan nhà nước Việt Nam đã chỉ rõ: chúng ta đã mất rất nhiều tài nguyên, mất nhiều lao động giá rẻ, mất nhiều ưu đãi về thuế và đất cát cho các doanh nghiệp nước ngoài, nhưng kết quả đem lại không tương xứng. Các ví dụ từ ngành cơ khí chế tạo, khoáng sản, thực phẩm chế biến, may mặc da giày, nông nghiệp và cả bán buôn, bán lẻ, và cả trong lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục.
Nhiều quốc gia xuất phát từ cột mốc 100, 200 USD GDP đầu người như chúng ta, nhưng đến nay đã lên 5000, 10000 USD, với ICOR thấp hơn chúng ta, TFP cao hơn chúng ta, và đặc biệt đã có những ngành công nghiệp mà tỷ lệ nội địa hóa rất cao, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, có những thương hiệu vững chắc trong các chuỗi siêu thị ở Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản. Gạo Campuchia là một ví dụ đáng để suy nghĩ nghiêm túc.
Theo đại biểu Trương Trọng Nghĩa, nhiều doanh nhân rơi nước mắt vì bị mất chủ quyền dù "doanh nghiệp được mua lại với giá ba đời ăn không hết".
Nhiều năm trước, chúng ta đã báo động là nhiều doanh nghiệp nước ngoài hầu như không đóng thuế thu nhập trong hàng chục năm vì luôn khai báo lỗ trong khi doanh số vẫn tăng đều, cơ sở luôn mở rộng, sau đó đã chuyển nhượng lại với giá cao và số lãi không nhỏ.
Chúng ta đã báo động về việc tỷ lệ nội địa hóa trong ngành ô tô, điện tử, sau hàng chục năm hầu như không nhích lên như cam kết. Chúng ta đã mất nhiều thị phần trong nước về thức ăn gia súc, thuốc thú y.
Gần đây, nhiều doanh nghiệp Viêt Nam trong lĩnh vực bán lẻ, dược phẩm, khám chữa bệnh, vận tải, và đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa, nổi lên là điện ảnh và nghệ thuật biểu diễn, đang báo động về việc họ đang bị từng bước loại khỏi thị trường trong nước, bởi các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam hầu như bất lực trước các hành vi cạnh tranh không lành mạnh như chuyển giá, như mua bán sáp nhập ở tầng trên và bên ngoài Việt Nam, trốn thuế bằng công nghệ cao và bằng cách điều chuyển vốn giữa các công ty trong cùng tập đoàn.
Các doanh nghiệp Việt Nam chứng kiến cảnh doanh nghiệp nước ngoài thì được rước mời, được ưu đãi nhiều mặt, còn mình thì bị hạch sách, nhũng nhiễu, nhiều trường hợp không có phong bì thì không qua được các cửa ải hành chính của nhiều ngành, nhiều cấp.
Chúng ta hầu như bất lực trước các vụ thắng thầu chỉ nhờ kê giá rẻ và cam kết công nghệ cao, chỉ vài năm sau thì đội vốn, thậm chí gấp đôi, giản tiến độ, gian dối về chất lượng và công nghệ, mà những dự án như vậy gộp lại có vốn đầu tư đến hàng trăm ngàn tỷ.
Nhiều doanh nhân Việt Nam rơi nước mắt, vì bị mất chủ quyền ngay chính quê hương mình, ngay cả khi được nước ngoài chào mua lại với cái giá ba đời cũng ăn không hết. Thật đau lòng khi con em chúng ta thuộc nhạc ngoại, mê phim ngoại, thần tượng ca sỹ, diễn viên ngoại, để tóc, ăn mặc theo mốt ngoại, ăn uống theo cung cách ngoại, trong khi đó không biết cả những kiến thức cơ bản về văn hóa và lịch sử Việt Nam. Khởi đầu từ kinh tế, tiếp đến là văn hóa, y tế, giáo dục, chủ quyền của chúng ta bị xâm hại từng bước và ngày càng nghiêm trọng ngay chính trong nước mình.
Tôi biết, tình hình trên không thể chỉ được giải quyết bằng luật cạnh tranh, mà còn bằng nhiều chính sách, luật pháp và biện pháp đồng bộ khác. Nhưng với hiểu biết và kinh nghiệm công tác của mình, tôi cho rằng luật cạnh tranh của chúng ta có thể và phải đóng góp nhiều hơn vào việc tăng cường nội lực Việt Nam. Nếu không thì những cái bấm nút của đại biểu quốc hội sẽ không làm tròn trách nhiệm phải có của nó.
Với ý kiến này, tôi không hề phủ nhận những thành tựu và nỗ lực của Quốc hội, Chính phủ và hệ thống chính trị trong thời gian qua, cũng biết rõ rằng, những điều tôi vừa nêu là một nhiệm vụ rất khó khăn và không thể giải quyết trong 1,2 năm.
Tuy nhiên, tôi muốn chuyển những lời báo động của cử tri, nhất là các doanh nghiệp quốc nội, đến Quốc hội và Chính phủ, bởi hiện trạng cho thấy những nỗ lực ấy là chưa đủ mạnh, trách nhiệm chưa đủ cao, và tình hình cần có những giải pháp đột phá, cấp bách, trước khi trở nên không còn cứu vãn được nữa.